Tiếp tục chuyến cứu trợ khẩn cấp 700 gia đình ở Biển Hồ vào cuối tháng 07/2020, chuyến thứ hai dành cho 150 gia đình bà con đồng bào ở Mat-Kla (làng Miệng Cọp, tỉnh Siem Reap) và một số người Khmer bản xứ trong các khu lân cận, đã được tiếp tục tổ chức thành công vào cuối tháng 08/2020
. Đây là số quà của những tấm lòng nhân ái ở Hoa Kỳ, Úc và Gia Nã Đại gửi tặng; với tổng chi phí cho hai chuyến phát nhu yếu phẩm là $22.253 mỹ kim, bao gồm $1,307 mỹ kim ủng hộ cho quỹ phát đồng phục, tập viết, học cụ, quà bánh cho các cháu học sinh tại bốn tỉnh Pursat, Kampong Chhnang, Prey Veng và Siem Reap.
Món quà cho mỗi gia đình kỳ này bao gồm các món quà tương tự như lần trước: 30kg gạo, một thùng mì gói Thái Lan, một kí-lô đường và một lít dầu ăn.
Các bao gạo lớn 30kg được bà con mừng vui đón nhận, vì đây là lần đầu tiên nhận được số gạo cứu trợ lớn nhất (thông thường là 10, 15 hoặc 20kg/phần). Điểm vui mắt là các bao gạo được đựng trong các bao bì khác nhau (vốn là bao bột mì, bao đường, bao ngũ cốc được tái sử dụng) để chi phí tổ chức đỡ tốn kém hơn, song thường là có hình vẽ, chữ in bên ngoài khác nhau.
Đối với các Cộng tác viên mới tham dự chuyến phát quà lần đầu, dù là người sống ở Cambodia, thường rất ngạc nhiên khi thấy cảnh một ghe máy chở nhiều người cùng đến lãnh quà, có lúc có cả trẻ trên dưới 10 tuổi "đại diện" gia đình lãnh quà. Thật ra lý do rất dễ hiểu với người ở địa phương nên luôn được mọi người cảm thông là: nhiều gia đình không có ghe máy để có thể tự chạy đến địa điểm phát gạo; và không ít trường hợp cả cha lẫn mẹ đều phải đi làm mướn, hay bận đi giăng lưới, bắt cá mưu sinh, nên con nhỏ ở nhà phải đem phiếu đi lãnh quà cho gia đình. Điểm đáng cảm động là trong cảnh khốn khổ người mình đã cố gắng giúp đỡ nhau, và không ai khiếu nại gì khi trẻ đến lãnh thay cho cha mẹ. Thậm chí có người nhận quà với hai phiếu vẫn được Ban tổ chức vui vẻ phát đầy đủ, vì mọi người đều biết nhau rất rõ và biết người đứng ra lãnh hai phiếu là lãnh dùm cho ai (người già neo đơn, bị bệnh hay bận đi làm cá mà nhà lại không có con cháu đi lãnh thay).
Một kỷ niệm vui vui khác là gặp người đi lãnh quà lại mặc áo khá "đẹp"... Một dịp, khi được hỏi khéo là "Hôm nay lãnh quà rồi... chị đi chợ hả?" thì chị bẻn lẻn cười nói: "...lâu lâu mới có dịp đi chỗ đông người mà... chứ đi giăng lưới, bắt cá hàng ngày mặc đồ này... coi sao được!". Đám trẻ cũng vậy, mỗi khi có đoàn tới là mặc đồ mới. Hỏi ra mới biết là "... ngày thường má biểu: đồ mới để dành...". Thì ra là vậy! Biết ra không tránh được nụ cười... méo xẹo trong lòng. Những "niềm vui" đó quả là lạ thường, hiếm thấy ở những xứ sở bình thường khác...
Cũng từ những hoàn cảnh nghiệt ngã đó, thường là khi phát quà xong, lòng anh em thường không tránh được cảm nhận vừa vui vừa buồn. Vui là chuyến công tác đã hoàn thành, không bị trở ngại nhiều và đã an ủi được phần nào các bà con đồng bào kém may mắn. Buồn là mỗi khi phát quà xong thì luôn nhận thấy các món quà được chia sẻ quả là quá nhỏ bé so với sự thiếu thốn, khổ sở triền miên của những thân phận tha hương biệt xứ -- những người mà quá khứ, hiện tại và chắc phần lớn là cả tương lai, đều không có gì đáng gọi là hạnh phúc hay sung túc. Trong một vài lần "bị" hỏi nhỏ với nội dung gần giống nhau: "Thầy ơi, khi nào Thầy đến phát gạo nữa?" thì câu trả lời thường là rất khó tìm ra...
Trong thực tế, những bao gạo, món quà này không phải là của "Thầy" hay của Hội. Tất cả là từ những tấm lòng nhân ái ở khắp nơi: có người là những thân hữu hảo tâm quen thuộc nhiều năm, có người chưa bao giờ gặp mặt, có người không chịu ghi địa chỉ là ở đâu. Do vậy, Hội chỉ có thể tổ chức phát gạo khi quỹ cứu trợ đã có đủ, hay được một thân hữu, một hội đoàn nào đó đứng ra bảo trợ chi phí tổ chức một chuyến phát gạo. Và đó là lý do các anh em đại diện Hội, và cả hội MIRO (một tổ chức bất vụ lợi Cambodian) đang hợp tác, đều không thể trả lời được các câu hỏi "...khi nào phát gạo nữa?".
Chương trình cứu trợ đặc biệt dành cho bà con đồng bào ở Biển Hồ hai kỳ này, thật ra, không khác những lần phát tặng nhu yếu phẩm ViDan Foundation đã tổ chức hay yểm trợ trước đây. Người nhận cũng là những gia đình người Việt tha hương biệt xứ đó. Nỗi khó khăn mỗi lúc có thể khác nhau về hình thức, mức độ... song tựu trung đều vẫn là cảnh khổ của những người không quốc tịch, không giấy khai sinh, không của cải, tiền bạc, nghề nghiệp vững chắc, và đều có hoàn cảnh giống nhau là: ai cũng ráng sống cho qua ngày -- không biết làm gì cho đỡ khổ, không biết bao giờ mới hết khổ.
Cùng hoàn cảnh đó là một số gia đình người Khmer bản xứ, sống trên ven bờ Biển Hồ sát cạnh mấy chục làng nổi của người Việt. Vì nhiều lý do khác nhau, những gia đình này cũng nghèo khó không kém cảnh trạng của người Việt mình. Do vậy, tất cả đều rất vui mừng mỗi khi có đoàn đến phát quà, vì Hội luôn chia sẻ đồng đều với những gia đình bị thiếu thốn này; vừa vì tình người, vừa để tạo thêm sự cảm thông, thân thiện cho các gia đình người Việt đang sống nhờ đất nước và dòng nước Biển Hồ của người bản xứ.
Kể từ khi chương trình phát gạo từ thiện được thành lập năm 2013 với buổi phát gạo đầu tiên ở làng nổi và các khu lao động nghèo ở tỉnh Siem Reap, cảm nhận của các anh chị em làm công việc chia sẻ này đều là ngượng nghịu, lúng túng khi phát quà. Mỗi phần quà, thường chỉ trị giá khoảng 10-15 mỹ kim - một khoản tiền quá nhỏ với những người định cư ở các nước ngoài nhưng với người nhận, đó là phần quà tương đương với khoản tiền kiếm được trong 4-6 ngày làm việc nặng nhọc -- điển hình là nghề lượm ve chai với lợi tức $2.5/ngày sau một ngày kéo xe nặng nhọc trên dưới 15km.
Trong các hình ảnh của người Việt "vô tổ quốc" ở Cambodia, hình ảnh những đứa trẻ vô tội sinh ra không được cấp giấy khai sinh, lớn lên không được đi học nên không thể thành tài hay tiến thân, thậm chí không đủ tiêu chuẩn để được xin vào làm ở những hãng xưởng, công ty, doanh nghiệp nào cả... vì KHÔNG có giấy căn cước Cambodia, và vì cũng không biết chữ Khmer.
Do vậy, ViDan Foundation cố gắng bằng tất cả khả năng có thể có được để xây dựng trường nổi, tổ chức lớp học, tìm kiếm Thầy Cô chịu dạy, và vận động ngân quỹ để duy trì lớp học, cung cấp sách vở, học cụ cho các cháu. Các cháu học tiếng Việt để không quên nguồn cội. Học tiếng Khmer để sau này ra đời không bị người bản xứ khinh khi là "đồ dzuồn dốt chữ!"
Điểm khích lệ trong đợt cứu trợ này là khoản thặng dư $1,307 USD từ hai chuyến phát nhu yếu phẩm đã được phép quý Hội hỗ trợ tài chánh cho bổ sung vào chương trình phát quà (đầu niên học 2020-2021) cho các cháu học sinh và trẻ thơ (ở những địa điểm đang được trợ giúp giáo dục) tại bốn tỉnh Pursat, Kampong Chhnang, Prey Veng và Siem Reap. Trong các trường này, chỉ có trường Samaki là trường dân lập (do người Việt ở Tây Úc xây dựng) được hưởng quy chế công lập. Các trường khác do ViDan Foundation thành lập và bảo trợ toàn bộ chi phí điều hành, kể cả đồng phục, sách vở, học cụ cho các cháu. Những trường này có sĩ số học sinh khác nhau và thay đổi thường xuyên do nhu cầu mưu sinh, các gia đình người Việt tạm cư không cố định lâu dài, và khi cha mẹ phải dời nhà bè đi nơi khác tìm "miếng ăn" khá hơn thì con cái bắt buộc phải bỏ học.
Chương trình phát quà đầu niên học cho học sinh đang được tiếp tục thực hiện và ViDan Foundation sẽ có tường trình chi tiết vào tháng 10/2020.
***
Thay mặt cho hơn 850 gia đình bà con đồng bào và người khốn khó vừa nhận được quà nhu yếu phẩm qua hai chuyến cứu trợ trực tiếp, Hiệp Hội ViDan Foundation chân thành tri ân sự tin tưởng và nhiệt tình hỗ trợ của tất cả quý Đồng hương hảo tâm, đặc biệt là quý hội Eyes of Compassion Relief Org. (Toronto, CAN), hội Charity Group of VA Affection (VA, USA) và nhóm Thân hữu Úc Châu (AUS), đã nhiệt tình vận động, đóng góp tài chánh để việc tổ chức chuyến cứu trợ được thành hình tốt đẹp.
Đồng thời, ViDan Foundation xin cảm ơn sự hợp tác nhiệt tình của anh Butmao Sourn và hội MIRO, và các tình nguyện viên, anh Dork Ra, Kimsroy, NgoLy... đã giúp chuyển vận hàng hóa về Koh Ka'Ek, Mat-Kla... giúp khuân vác gạo giúp cho người già yếu, khuyết tật và phụ nữ ở cả bốn địa điểm.
Một lần nữa, chúng ta đã cho nhau niềm tin sâu sắc ở tình người và tình đồng bào.
***
Quý Đồng Hương muốn đóng góp cho các chuyến cứu trợ sắp tới ở Biển Hồ, hay cho chương trình trợ giúp giáo dục thường trực của ViDan Foundation dành cho khoảng 500 trẻ Việt ở bốn tỉnh Pursat, Kampong Chhnang, Prey Veng và Siem Reap, xin vui lòng liên lạc Vidan Foundation qua địa chỉ email: lienlac@vidan.us hoặc qua điện thoại (713) 391-9843 (xin hỏi cô Anh Trinh).
Mọi thư từ liên lạc, chi phiếu trợ giúp xin ghi rõ chương trình muốn trợ giúp và gửi đến:
ViDan Foundation Inc: PO Box 92601, Austin, TX 78709-2601
Trợ giúp tài chánh cho hoạt động của Hiệp Hội có thể được chuyển qua hệ thống PayPal, hay Zelle bằng địa chỉ email: contact@vidan.us
(Mọi sự trợ giúp đều được cấp biên nhận khấu trừ thuế lợi tức liên bang – Federal Tax-Deductible Receipts)
Người Việt thế hệ hai vẫn không được chính phủ Campuchia coi là công dân
Mỹ Hằng BBC, Bangkok
Chụp lại hình ảnh,
"Đã là người Việt thì sẽ không được ưa ở Campuchia," Hiền khẳng định
Trong khi đi tìm kiếm nhân vật cho loạt phóng sự về cộng đồng người Việt ở Campuchia, chúng tôi gặp những người trẻ tuổi 'vô chính phủ' khác không phải ở Biển Hồ, mà ngay trong lòng Phnom Penh sầm uất.
Một trong số đó là Huỳnh Thanh Hiền, 30 tuổi, có bố mẹ đều là người Việt, sinh ra ở Campuchia, hiện là thợ làm móng ở thủ đô Phnom Penh.
Thuộc thế hệ trẻ hiện đại, giao tiếp tốt, quen công nghệ, nói thành thạo tiếng Khmer và tiếng Việt, Hiền dường như đã có thể trở thành lớp người gốc Việt mới thành đạt tại Campuchia này.
Truyền thông viết ít nhiều về cộng đồng gốc Việt nghèo, không được thừa nhận ở vùng Biển Hồ, nhưng thanh niên có điều kiện hội nhập hơn như Huỳnh Thanh Hiền cũng vẫn sống bên lề xã hội Campuchia.
'Không được chấp nhận'
Chụp lại hình ảnh,
Huỳnh Thanh Hiền sinh ra ở Campuchia, nhưng cô nói 'chưa bao giờ được hoàn toàn chấp nhận' ở đây
"Đã là người Việt thì sẽ không được ưa ở Campuchia," Hiền khẳng định.
"Khi còn bé, tôi không hiểu vì sao người Campuchia không thích tôi và người Việt Nam nói chung. Về sau khi lớn lên, tôi hiểu được một số lý do trong quá khứ, từ thời chiến tranh, người Campuchia luôn nghĩ rằng người Việt Nam có quyền lực, và vì thế luôn sợ mất đất về tay người Việt," Hiền vừa nói vừa lướt điện thoại trong một quán cà phê hiện đại ở Phnom Penh, nơi cô hay lui tới.
"Con gái Campuchia mà có bạn trai là người Việt Nam thì gia đình sẽ không cho cưới. Đi thuê nhà, người Việt Nam thì họ không cho thuê nhưng nếu nói là người Trung Quốc thì cho thuê. Nhìn chung người Campuchia họ không thích mình nhưng không làm gì mình cả. Tôi vẫn có bạn Campuchia và vẫn chơi với họ bình thường. Chỉ khi nào cãi nhau thì họ sẽ nói mình là 'jun' - từ lóng, kiểu nói miệt thị ở Campuchia."
"Tôi sinh ra và lớn lên ở đây. Tôi coi đây là đất nước của mình. Nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy mình được hoàn toàn chấp nhận ở đây. Tôi không biết mình thực ra là người nước nào," Hiền nói.
Hiền và bốn người em đều sinh ra ở Phnom Penh nhưng không ai có giấy tờ hộ tịch Campuchia.
Các em Hiền thậm chí không có giấy khai sinh vì đã bị chính quyền tịch thu trong đợt xét cấp lại giấy tờ cho 'người nước ngoài' năm 2017.
Do không phải công dân Campuchia, theo luật nước này, cả năm chị em Hiền đều không được đi học các trường tiếng Khmer của chính phủ. Nhờ hoạt bát, giao tiếp tốt, Hiền có thể nói thông thạo tiếng Khmer nhưng không biết đọc và viết. Hiền chỉ học đến lớp Ba trường tư của người Việt, biết mặt chữ và làm các phép tính đơn giản, đủ để sống sót khi ra đời.
Nhóm bạn của Hiền ở Phnom Penh phần lớn cũng là người gốc Việt và có chung câu chuyện không hộ tịch Campuchia, không bằng cấp.
Họ chủ yếu đi làm thuê hoặc mở các dịch vụ cắt tóc, làm móng để sinh sống. Chưa từng có ai đặt được chân vào cơ quan nhà nước. Trở thành một nhân viên chính phủ là điều hoang tưởng.
Huỳnh Thanh Hiền nói không có dự định gì cụ thể trong tương lai ngoài mong có giấy tờ Campuchia
Khi chúng tôi liên hệ với Đại sứ Việt Nam tại Campuchia Vũ Quang Minh để nhờ ông giới thiệu một tấm gương người gốc Việt trẻ tuổi thành đạt tại Campuchia.
Thông tin phản hồi của Đại sứ mà chúng tôi nhận được là: "Đến nay chưa có ai!"
Vì sao cộng đồng gốc Việt tại Campuchia, với dân số ước tính lên tới hơn 180.000 người cho tới thời điểm hiện tại, không có ai thực sự vươn lên thành đạt? Vì sao hàng ngàn người, như Hiền, không được thừa nhận là dân Campuchia. Vì sao họ 'bị ghét'?
Câu chuyện của chúng tôi với những người gốc Việt tại Campuchia quanh đi quẩn lại luôn quay về chuyện 'không được chấp nhận' và không hộ tịch.
Trong chuyến thăm trường tiểu học Khmer Việt Nam tại tỉnh Preyveng, cách Phnom Penh 60 km, chúng tôi gặp ông Phann Sarin, Chủ tịch Tổng hội người Campuchia gốc Việt Nam của tỉnh. Ông Phann Sarin thừa nhận rằng "sâu thẳm, người Campuchia không thích người Việt.
"Tình hình căng thẳng nhất là vào đợt tranh cử năm 2003, các đảng phái tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu người Việt để lôi kéo thêm phe cánh ủng hộ. Họ nói người Việt Nam xâm lược Campuchia, chặt đầu người Campuchia... Một bộ phận người Campuchia do hiểu biết thấp đã tin theo những điều này. Họ tìm cách hãm hại người Việt, thậm chí tìm cách giết. Có hai cha con đi đặt bẫy chuột đã bị họ phục kích bắt trói, đánh đập, rồi bỏ vào ghe để thả xuống một khúc sông vắng. May họ tỉnh dậy, tự mở trói được. Nhưng quá hoảng sợ, nhà đó đã bỏ chạy về Việt Nam. Bà con người Việt hoang mang dữ lắm."
"Bây giờ đỡ nhiều rồi. Quan hệ giữa người Việt và người Khmer đã tốt hơn. Người Khmer giờ đã hiểu hơn, họ nhìn lại thực tế đã bị các đảng phái lừa gạt... Quanh đây người Việt sống lẫn với người Khmer hòa thuận, không có chuyện gì xẩy ra. Những người hiểu biết thì họ rất thương mến người Việt. Nhưng vẫn có một phần tử nhỏ vẫn tuyên truyền nói xấu... Và trong sâu thẳm thì có nhiều người Khmer không thích mình dù họ vẫn chung sống hòa bình với mình."
Dân thành phố cũng có hơn?
Việc không được hoàn toàn chấp nhận trong xã hội Campuchia đã để lại hậu quả nặng nề cho cộng đồng gốc Việt tại Campuchia.
Trong trường hợp của Hiền, dù là dân thành phố nhưng cô cũng không có cơ hội vươn lên như hàng ngàn dân gốc Việt thất học khác ở các làng chài trên Biển Hồ.
Do không có hộ tịch, cô không được hưởng một nền giáo dục đầy đủ, không có bằng cấp, không được đi khám các dịch vụ y tế của nhà nước, không được cấp hộ chiếu, không được đặt phòng khách sạn, không mở được tài khoản ngân hàng, không được đi bầu cử.
Tóm lại, Hiền không được hưởng các quyền công dân Campuchia cơ bản mà cô cũng không phải công dân Việt Nam.
Chuyện bị phân biệt đối xử dường như ảnh hưởng tới cả công dân Việt Nam làm việc tại Campuchia.
Anh Nguyễn Văn Hào, quốc tịch Việt Nam, Hiệu trưởng kiêm giáo viên đứng lớp trường tiểu học Khmer Việt Nam ở Preyveng nói nguyện vọng của anh chỉ là được trả lương công bằng như các đồng nghiệp Campuchia.
"Hiện nay lương của tôi là 150 đô la một tháng, trong khi tôi có bằng sư phạm. Các đồng nghiệp người Campuchia thì được gấp đôi, 300 đô la một tháng. Vì sao lại như thế?" Thầy Hào đặt câu hỏi.
Chụp lại hình ảnh,
Thấy giáo Nguyễn Văn Hào hưởng mức lương bằng một nửa đồng nghiệp Campuchia
Mâu thuẫn vì đâu?
Một số nghiên cứu hiếm hoi mà chúng tôi tìm thấy chỉ ra rằng mâu thuẫn giữa người gốc Việt và người Khmer tại Campuchia đã có từ lâu đời, chí ít từ thời Pháp đô hộ Đông Dương (1863-1953), khi các làng chài của người Việt bắt đầu hình thành trên sông Mekong gần biên giới Campuchia.
Sau đó vào những năm 1960, dưới thời ông hoàng Sihanouk, ông này cho phân chia lại các nhóm sắc tộc và đưa ra những chính sách mới về quốc tịch, trong đó người gốc Việt Nam vẫn là 'người nước ngoài'.
Luật do vua Sihanouk ban hành năm 1954 quy định người sống ở Campuchia 5 năm sẽ được cấp quốc tịch Campuchia, với yêu cầu phải 'thuần thục' tiếng Khmer và phải 'đồng hóa đủ' về đời sống, văn hóa Khmer, theo nghiên cứu mang tên "A Boat Without Anchors" của Tiến sỹ Christoph Sperfeldt.
Thế nhưng chính sách này vấp phải sự phản đối về mặt chính trị. Năm 1963, Quốc hội Campuchia tuyên bố không cấp quốc tịch cho toàn bộ người Việt tại đây do họ 'không thể đồng hóa nổi'. Đồng thời thành lập một ủy ban để tước quốc tịch của bất cứ ai 'không tôn trọng văn hóa của chúng ta'.
Chính sách phân biệt đối xử này chủ yếu nhắm vào cộng đồng người gốc Việt tại Campuchia trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với người Việt và chiến tranh Việt Nam đang tràn vào lãnh thổ Campuchia.
Tiếp đó, là sự kiện năm 1979 khi làn sóng gần 200.000 người gốc Việt - những người chạy về Việt Nam để tránh nạn diệt chủng Khmer Đỏ (1975-1979) - quay lại Campuchia khi Khmer đỏ bị lật đổ.
Theo nhà nghiên cứu Ramses Amer, trong số những người này, có người từng là lính chiến tranh Việt Nam, có người tới Campuchia tìm kiếm các cơ hội kinh tế, và có những người từng sinh sống tại Campuchia trước nạn diệt chủng.
Nhưng dù họ là ai thì tất cả đều bị xem là một phần chiến lược của Việt Nam nhằm gây ảnh hưởng, thậm chí đô hộ Campuchia; và là đề tài chính trị chính của các nhóm đối lập tại Campuchia vốn lo sợ ảnh hưởng ngày càng tăng của Việt Nam.
Từ đó cho tới nay, số phận người Việt tại Campuchia chưa bao giờ hết khó khăn.
Họ bị tàn sát năm 1996, 1998, bị di dời từ nước lên bờ năm 1999, và hơn hết, luôn bị đối xử 'như người nước ngoài'.
Vòng 'luân hồi' 'vô chính phủ'
Luật Hộ tịch 1996 của Campuchia - là luật hiện hành - quy định định trẻ nào sinh sau 1996 và có bố mẹ là người nước ngoài sinh ra và sống hợp pháp ở Campuchia thì tự động được cấp hộ tịch Campuchia. Nhưng cho đến nay chưa có đứa trẻ gốc Việt nào sinh sau 1996 được cấp hộ tịch.
Trong nghiên cứu mang tên "A Boat Without Anchors", Tiến sỹ Christoph Sperfeldt chỉ ra rằng trong nhiều trường hợp rất khó có được giấy tờ chứng minh cha mẹ của họ sinh ra ở Campuchia do thất lạc trong quá trình chạy nạn diệt chủng, hoặc do bị chính quyền tịch thu từ lâu.
Thêm nữa, yêu cầu 'phải thông thạo tiếng Khmer' coi như 'viễn tưởng' bởi người Việt ở Campuchia chưa từng được đến một trường Khmer chính quy nào. Ngoài ra, cũng khó chứng minh được rằng thế nào thì người Việt được cho là 'chung sống hòa bình với cộng đồng Khmer và có thể quen với tập tục, văn hóa Khmer' hay có 'thái độ và hành xử đúng mực' như luật định.
Không được cấp hộ tịch, dẫn đến không được đi học, dẫn đến mù chữ Khmer, dẫn đến không có nghề nghiệp ổn định, dẫn đến không vượt qua được điều kiện 'không trở thành gánh nặng cho chính phủ Campuchia' theo luật định, dẫn đến không được cấp hộ tịch…. là vòng quay bất tận nhiều đời nay của cộng đồng người Việt tại Campuchia.
Ngày 1/7/2019, chính phủ Campuchia ban hành văn bản mới, hướng dẫn cấp lại giấy khai sinh cho cho người nước ngoài có thẻ thường trú khi 'họ có đề nghị xin'. Nhưng những người gốc Việt mà chúng tôi được tiếp cận cho rằng văn bản này cũng không giúp gì cho họ trong việc được cấp hộ tịch Campuchia.
Hiện, hi vọng lớn nhất mà cộng đồng người gốc Việt đang bấu víu vào, là kế hoạch 'thẻ xanh' của chính phủ Campuchia. Theo đó, người nước ngoài cư trú hợp pháp ở Campuchia sẽ được lần lượt cấp thẻ xanh, vàng, hồng, trong vòng 7 năm.
Và cứ mỗi hai năm một lần trong vòng 7 năm này phải đóng một khoản thuế thế thân. Sau 7 năm, người được cấp thẻ có thể làm thủ tục xin nhập quốc tịch Campuchia.
Thế nhưng với Huỳnh Thanh Hiền, cô nói quy định này gieo hi vọng mong manh.
"Tôi đã đóng thuế được hai năm rồi, nếu tôi có được cấp hộ tịch thì cũng phải thêm 5 năm nữa mà tôi đã 30 tuổi rồi. Cho tới khi đó tôi sẽ vuột mất thêm bao nhiêu cơ hội học hành, việc làm, đi lại. Chúng tôi sinh ra và lớn lên ở đây, lẽ ra cần được xem xét cấp hộ tịch ngay.
Vì sao phải đợi thêm 7 năm nữa mới xem xét? Và sau 7 năm chính quyền mới 'xem xét' thôi chứ tôi có được xác định là đủ tiêu chuẩn để được cấp quốc tịch hay không thì không chắc. Với những người đã sống gần hết cả đời ở đây thì sao, họ có đợi nổi không?"
Tôi đem băn khoăn của Hiền hỏi ông Nguyễn Văn Huệ, 65 tuổi, Phó Chủ tịch Tỉnh hội Người Campuchia gốc Việt Nam tại Preyveng. Ông Huệ sinh ra ở Campuchia và đã chờ được cấp hộ tịch Campuchia gần cả đời người rồi. Ông Huệ trầm ngâm không trả lời.
Trong nghiên cứu của mình, Tiến sỹ Christoph Sperfeldt nhấn mạnh rằng việc cấp hộ tịch được xem là 'đặc ân của Vương quốc Campuchia'.
"Trong bối cảnh xã hội và chính trị của một nước mà cả chính quyền và người bản địa đều không xem cộng đồng gốc Việt là một phần của xã hội Campuchia thì các thủ tục liên quan có vẻ không đáng tin. Có nghĩa là, kể cả khi người gốc Việt đáp ứng đủ các yêu cầu theo luật, họ cũng chưa chắc được chính quyền Campuchia cấp hộ tịch. Cấp hay không, phụ thuộc hoàn toàn vào người ra quyết định, vào kẻ nắm quyền, chứ không phải luật pháp. Và lịch sử quan hệ giữa hai cộng đồng người không cho thấy có ánh sáng lạc quan."
Người Việt ở Biển Hồ Campuchia lên bờ rồi đi đâu?
Mỹ Hằng- BBC
NGUỒN HÌNH ẢNH,ULLSTEIN BILD/GETTY IMAGES
Chụp lại hình ảnh,
Người Việt ở Biển Hồ Campuchia lên bờ rồi đi đâu? (Ảnh minh họa)
Chúng tôi tới Campuchia sau tròn 40 năm quân đội Việt Nam giải phóng đất nước này khỏi nạn diệt chủng Khmer Đỏ (1979 - 2019) chỉ để chứng kiến hàng trăm gia đình ở khu vực Biển Hồ bị đưa lên bờ trong điều kiện tạm bợ. Hàng trăm hộ khác cũng sẽ sớm phải rời làng nổi.
Đây là những gia đình thuộc cộng đồng gốc Việt sống trên khu vực Biển Hồ hoặc trên sông Tonle Sap. Họ phần lớn sinh ra tại Campuchia, vốn bị xếp vào những người 'vô chính phủ' do không được công nhận là công dân nước này. Nay họ đối mặt thêm khó khăn mới khi phải dời từ các làng chài đã sinh sống nhiều đời để lên bờ.
Cách thủ đô Phnom Penh hơn hai giờ chạy xe, chúng tôi tới ấp Chong Kok, tỉnh Kampong Chhnang, nằm ven hồ Tonle Sap - một trong những nơi đầu tiên thực hiện kế hoạch di dời của chính phủ Campuchia.
Trên một nền đất trống lơ thơ những bụi cây dại, những chái nhà gỗ nằm phơi dưới nắng tháng Bảy đổ lửa. Khu tạm cư là một vùng đất ngập nước. Nghĩa là tới tháng Mười sắp tới, toàn bộ khu nhà tạm này sẽ là biển nước.
Không điện, không nước sạch, không đường, không trường, không nhà vệ sinh... là điều kiện sống hiện nay của hơn 400 hộ mới lên bờ ở ấp Chong Kok.
Bắt đầu từ ngày 2/10/2018, hơn 400 hộ này bị buộc dọn lên bờ tức thì. "Hộ nào không chịu đi thì chính quyền cho người chặt dây neo, kéo lên bờ," ông Lê Văn Hiền, một người dân trong ấp, kể lại.
Hơn 400 hộ còn lại, hiện đang sống và nuôi cá trên sông, sẽ buộc phải chuyển lên bờ trong thời gian tới.
Tỉnh Kampong Chhnang có khoảng 2.400 gia đình gốc Việt, và là tỉnh có nhiều người Việt thứ hai tại Campuchia. Đa số bà con, dù sinh sống nhiều đời tại đây, vẫn chưa được chính quyền công nhận là công dân Campuchia, chưa được cấp quốc tịch Khmer.
Chụp lại hình ảnh,
Chiếc ghe là nơi bán hàng và sinh sống của vợ chồng ông Trần Văn Tấn
Chụp lại hình ảnh,
Ông Huynh Văn Cầu lo lắng mùa nước nổi năm nay nhà sẽ chìm trong nước
Chụp lại hình ảnh,
Bà Nguyễn Thị Diện (trái), 65 tuổi, nói với phóng viên BBC rằng ở khu tạm cư này khổ nhất là phụ nữ vì không có chỗ tắm và nhà vệ sinh
Tiếp chúng tôi trong căn nhà ghép bằng những tấm ván mỏng kê trên các cọc gỗ đã cũ, đi phải nhón chân sợ sập, ông Huỳnh Văn Cầu nói những căn nhà gỗ họ đang ở chính là căn nhà nổi họ từng sống trên sông. Suốt nửa năm qua bị kéo lên cạn, các phao nổi làm bằng tre, gỗ và các thùng phuy nhựa đã nứt toác, hỏng cả.
"Trước đây ở dưới sông, nước rút đến đâu thì nhà nổi theo đến đó. Nhưng nay các đồ nổi như thanh tre, cọc nứa, thùng phuy… do đem lên bờ cả năm, nắng nóng đã nứt hỏng cả mà không ai có tiền mua đồ mới. Chúng tôi không biết mùa nước nổi năm nay tính sao. Mấy căn nhà này chắc sẽ chìm trong nước cả thôi," ông Cầu nói.
Theo người dân ở đây, họ không biết tương lai ra sao bởi chính quyền không cho họ ở nơi tạm cư này lâu. Lý do vì đây là đất ruộng của người Campuchia, chỉ được ở thuê ở tạm một thời gian ngắn. Nhưng đi đâu tiếp theo thì chưa ai được biết.
Nơi này, bà con cho hay, thực ra cũng do 'đấu tranh quyết liệt' mới được ở tạm. Ban đầu, chính quyền địa phương dự định đưa họ vào một khu 40 hectar nằm cách sông Mekong khoảng 5km. Nơi cũng không có một công trình dân sinh tối thiểu nào.
"Ở đây ít ra cũng gần sông, còn chạy lên chạy xuống được. Vẫn đánh bắt cá được. Nếu ở trong khu đất kia chúng tôi không biết lấy gì mà ăn. Đau ốm cũng không biết chạy đi đâu," ông Huỳnh Văn Cầu nói.
Đời sống bấp bênh, dường như phụ nữ là thiệt thòi hơn cả.
Chụp lại hình ảnh,
Nhiều gia đình không thể thích nghi với cuộc sống trên bờ đã phải quay lại, sống trong những chiếc ghe chật hẹp
Bà Huỳnh Thị Dương, 45 tuổi, nói không có phòng tắm. Phụ nữ muốn tắm thì lấy nước kéo từ sông rồi đứng dội nước ở góc nhà. "Cũng không ai dám xây nhà vệ sinh. Vì nhỡ bỏ tiền xây xong rồi lại phại chuyển đi."
"Đi đâu cũng được, nhưng an cư mới lạc nghiệp. Chúng tôi không phản đối việc chuyển lên bờ. Nhưng chúng tôi mong chính phủ Campuchia nếu chuyển chúng tôi lên đây thì cho chúng tôi ở nguyên chỗ này để chúng tôi yên tâm làm ăn," ông Huỳnh Văn Cầu bày tỏ.
Nhiều gia đình, do không có kế sinh nhai gì trên cạn, đã bỏ nhà. Họ mua, hoặc thuê một cái ghe nhỏ làm nơi tá túc và chèo ra sông kiếm cá ăn hàng ngày, không quay lại bờ.
Chúng tôi vào những căn nhà bỏ hoang không có cửa trong ấp Chong Kok. Bên trong sơ sài chiếc bàn thờ phủ bụi. Vài chiếc xoong, nồi nằm trong xó nhà. Những dây quần áo treo ngoài hiên từ lâu không có người thu lại đã bạc màu, phủ đầy bụi. Dân ở đây nói trong số hơn 400 hộ lên bờ thì hơn một nửa trong số đó đã bỏ nhà.
Chèo thuyền đưa chúng tôi đi thăm làng chài trên dòng Tonle Sap, ông Trần Văn Tấn, 45 tuổi, chỉ cho chúng tôi chiếc ghe chở đầy rau củ là nơi bán hàng và sinh sống của vợ chồng ông. "Nhà nổi tôi bán rồi. Mua chiếc ghe này bán hàng và ở luôn. Lên bờ không biết sống bằng gì," ông Tấn nói.
Chính quyền nói gì?
Trao đổi với phóng viên BBC, đại sứ Việt Nam tại Campuchia, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Quang Minh cho hay Kampong Chhnang là tỉnh đầu tiên chính quyền Campuchia thí điểm đưa người dân sống trong các làng nổi trên sông Mekong lên bờ.
Chụp lại hình ảnh,
Đại sứ Vũ Quang Minh cho BBC hay rằng sau khi đi thăm bà con tại một số điểm tạm cư, ông có phần lo lắng về tình trạng bà con tại ấp Chong Kok.
"Tinh thần của nhà nước Việt Nam là ủng hộ chủ trương bảo vệ môi trường của Nhà nước Campuchia, và bà con gốc Việt cần tuân thủ mọi luật pháp, chính sách của chính quyền sở tại. Việc sinh sống xả thải trực tiếp trên sông nhiều năm qua đã góp phần gây ô nhiễm nguồn nước. Bên cạnh đó, cuộc sống trên sông nước cũng khá bấp bênh, đặc biệt là điều kiện học tập của trẻ em. Nguồn thuỷ sản cũng dần cạn kiệt và thu nhập ngày càng giảm. Do đó việc ổn định cuộc sống cho bà con là hết sức cần thiết," đại sứ Vũ Quang Minh nói.
"Tuy nhiên chúng tôi mong muốn chính quyền Campuchia có kế hoạch thực hiện việc di dời theo lộ trình từng bước, đảm bảo các điều kiện về cơ sở hạ tầng, nước sạch, xử lý chất thải, trường học, trạm xá, duy trì kế mưu sinh và chuyển đổi nghề nghiệp cho bà con nếu cần thiết trước khi di dời."
Trong toàn tỉnh Kampong Chhnang có 6 nơi thực hiện chính sách này. Trong đó, đại sứ Vũ Quang Minh cho là có nơi có dấu hiệu lạc quan. Chẳng hạn khu tạm cư cho người Việt tại huyện Boribor, tỉnh Kampong Chhnang. Nơi này, chính quyền đã cho đào một con kênh nối với sông Mekong. Bà con người Việt sẽ được đưa lên sinh sống tại hai bờ con kênh này và vẫn có thể nuôi cá, chèo thuyền ra sông.
Chụp lại hình ảnh,
Bà Huỳnh Thị Dương, 45 tuổi, sống trong căn nhà tạm bợ này từ 6 tháng qua, kể từ khi chuyển lên bờ
Tờ Phnom Penh Post hồi tháng 1/2019 cho hay đã có hơn 3.000 gia đình gốc Việt sống trên Biển Hồ đã tự nguyện tái định cư đến các khu vực cao hơn theo quy hoạch của chính quyền Campuchia. Còn 750 hộ khác đang nuôi cá bè được ở lại nhưng sẽ phải dọn lên bờ sau 6 tháng.
Ông Chhour Chandoeun, tỉnh trưởng tỉnh Kampong Chhnang, khi đó nói kế hoạch di dời sẽ được thực hiện theo 2 giai đoạn. Giai đoạn một bao gồm xây cơ sở hạ tầng phù hợp cho dân tái định cư. Trong giai đoạn hai, chính quyền Campuchia sẽ hợp tác với các công ty tư nhân chuẩn hóa các bè nuôi cá trên Biển Hồ trước khi biến chúng thành điểm tham quan du lịch có thu phí.
Dù vậy, đại sứ Vũ Quang Minh cho BBC hay rằng sau khi đi thăm bà con tại một số điểm tạm cư, ông có phần lo lắng về tình trạng bà con tại ấp Chong Kok.
"Tôi thấy mô hình đưa dân làng nổi lên bờ ở một số điểm di dời còn nhiều bất cập. Bởi lẽ họ bị đưa lên bờ trong khi trước đó không có dịch vụ an sinh tối thiểu được xây dựng, mặc dù gần đây chính quyền tỉnh có nỗ lực như cung cấp nước sạch, nhưng điểm di dời xa sông trong khi chưa có khả năng thay đổi nghề nghiệp mưu sinh... Đất ở hiện nay bà con tự thuê của tư nhân nhưng cũng chưa rõ có thể thuê lâu dài không và mức giá bao nhiêu."
'Mắc kẹt'
Chụp lại hình ảnh,
Cảnh sống tạm bợ của người dân gốc Việt ấp Chong Kok, tỉnh Kampong Chhnang, sau khi lên bờ
Chụp lại hình ảnh,
Các hộ dân gốc Việt trên sông Tonle Sap nói với BBC rằng không biết phải sống ra sao khi bị đưa lên bờ
Việc đưa người gốc Việt sống trong các làng nổi trên sông Mekong lên bờ thực ra không phải là chính sách mới của chính quyền Campuchia.
Trong báo cáo của Đại diện Đặc biệt cho Tổng Thư ký LHQ (SRSG) về tình hình nhân quyền tại Campuchia, tác giả Thomas Hammarberg đề cập đến một sự kiện năm 1999 khi chính quyền Phnom Penh quyết định di dời khoảng 700 gia đình gốc Việt sống trên những ngôi nhà nổi trên sông Bassac đến tỉnh Kandal.
"Khi các gia đình Việt Nam bắt đầu đến nơi được chỉ định để tái định cư, chính quyền địa phương đã cố gắng ngăn họ ở lại. Hơn một trăm gia đình tiếp tục xuôi dòng về biên giới Việt Nam, nơi họ cho hay bị ngăn không cho ngược dòng hoặc qua biên giới. Ví dụ này nêu bật tình trạng bấp bênh của người gốc Việt ở Vương quốc Campuchia, khi họ mắc kẹt giữa Campuchia và Việt Nam."
Một nguồn tin giấu tên cho BBC hay việc can thiệp để cải thiện tình trạng của cộng đồng gốc Việt tại Campuchia rất phức tạp và nhạy cảm.
Ngoài sự không thích người Việt đã ăn sâu bám rễ vào tiềm thức dân Campuchia qua nhiều thế hệ, từ đó dẫn đến việc cộng đồng gốc Việt bị phân biệt đối xử, tới việc ngay cả chính phủ Việt Nam được cho là làm gì cũng phải thận trọng để tránh bị xem là "can thiệp vào vấn đề nội bộ" của Campuchia, cho tới việc dường như có sự thiếu đoàn kết ngay trong cộng đồng.
Trong cuộc nói chuyện với chúng tôi, nhiều người dân ấp Chong Kok cho hay khu đất 40ha nằm cách sông Mekong 5km - nơi ban đầu họ bị 'ép' chuyển vào đó - là của một nhân vật đại diện cho cộng đồng gốc Việt trong tỉnh. Vị này được cho là 'bắt tay' với chức sắc địa phương để bán lô đất cho dân làng chài với giá vài ngàn đô la cho 100 mét vuông đất nền.
"Hiện đã có vài chục hộ có tiền, đã mua. Họ bị lừa. Vì vào trong đó rồi thì chả có gì ngoài những hứa hẹn," một người dân nói.
"Ông ấy trước cũng là một người trong số chúng tôi. Người dân tín nhiệm nên bầu ông ấy lên. Và giờ ông ấy như thế," một người khác nói.
BBC không có điều kiện để kiểm chứng các thông tin này một cách độc lập.
Trong email gửi BBC, Tiến sỹ Christoph Sperfeldt, một trong hai tác giả của nghiên cứu mang tên "A Boat Without Anchors" về tình trạng pháp lý của cộng đồng gốc Việt tại Campuchia xuất bản năm 2012, nhận định: "Nhìn chung, nhiều người trong các cộng đồng này gặp trở ngại khi nói lên các vấn đề của mình tới những người ra quyết định."
"Cư dân Việt Nam cư trú lâu dài ở Campuchia (tức là những người cư trú tại Campuchia trước năm 1975 và chỉ sống sót dưới chế độ Khmer Đỏ nhờ họ bị trục xuất về Việt Nam) đã trải qua một loạt các cuộc đàn áp và phân biệt đối xử trong quá khứ.... Trong bối cảnh đó, có thể hiểu rằng nhiều cộng đồng Việt Nam sợ nói ra trước công chúng sự thiệt thòi của họ - và mức độ người dân được tham gia trong quá trình ra quyết định còn thấp."
Chụp lại hình ảnh,
Một ngôi nhà nổi bị kéo lên bờAbout 61,900 results (0.57 seconds)