VN trước nguy cơ mất nước do nhóm lãnh đạo CS tham tiền TQ lo thoát thân và gia đình sang Âu Mỹ
18.06.2022 13:20
VN tứ đầu thọ địch: Trung Quốc hạ thủy tàu sân bay thứ ba, đặt "VN vào một mối nguy hiểm mới" trong khi lãnh đạo chẳng tha thiết với quốc dân
RFA- 2022.06.17
Hàng không mẫu hạm thứ ba của Trung Quốc hạ thủy hôm 17/6/2022
AFP chụp màn hình CCTV
Cán cân sức mạnh quân sự ở khu vực đã nghiêng hẳn về phía Trung Quốc với sự bổ sung vũ khí mới nhất này.
Hôm 17 tháng 6, hãng tin Reuters đưa tin Trung Quốc tổ chức lễ hạ thủy chiếc tàu sân bay thứ ba của nước này mang tên Phúc Kiến.
Đây được cho là chiếc tàu sân bay đầu tiên được thiết kế và đóng hoàn toàn bởi công nghệ nội địa, so với hai chiếc trước đó là Liêu Ninh và Sơn Đông có nguồn gốc từ Liên Xô cũ.
Điều này cho thấy năng lực đóng tàu quân sự của Trung Quốc đã đạt bước tiến mới, và với sự bổ sung mới này thì sức mạnh của hải quân nước này sẽ tăng lên rõ rệt.
Đáng chú ý là động thái này diễn ra chỉ mấy ngày sau khi ông Tập Cận Bình ký sắc lệnh cho phép quân đội Trung Quốc thực hiện chiến dịch quân sự ở nước ngoài.
Nhấn mạnh rằng những chiến dịch quân sự mà quân đội nước này được thực hiện ở nước ngoài không được mang tính chiến tranh, tuy nhiên với việc Nga gọi cuộc xâm lược ở Ukraine là “chiến dịch quân sự đặc biệt” thay vì là một cuộc chiến tranh, nhiều chuyên gia lo ngại Trung Quốc cũng có thể làm điều tương tự.
Trao đổi với Đài Á châu Tự do, thạc sĩ Hoàng Việt, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông và quan hệ quốc tế, cho biết với việc Trung Quốc có thêm hàng không mẫu hạm thứ ba, cán cân quân sự ở khu vực lệch hẳn về Bắc Kinh.
“Nếu mà so sánh trong toàn bộ khu vực Đông Nam Á, đặc biệt khu vực Biển Đông thì rõ ràng là không có quốc gia nào ở khu vực này có thể theo kịp được với Trung Quốc.
Gần đây Trung Quốc tuyên bố về những máy bay như J20, rồi đến bây giờ với cái tàu sân bay như vậy thì rõ ràng sức mạnh quân sự của Trung Quốc ở trên biển đã vượt trội rất nhiều lần so với các quốc gia Đông Nam Á.
Mà chúng ta biết khu vực Đông Nam Á có nhiều quốc gia tham gia vào tranh chấp trên Biển Đông.
Cái này được đặt trong bối cảnh là trong thời gian vừa qua thì Trung Quốc đã có rất nhiều hành động với tham vọng thể hiện sức mạnh, và tham vọng độc chiếm khu vực Biển Đông.
Với việc sức mạnh của Trung Quốc được gia tăng thì chắc chắn là họ sẽ tiếp tục có những hành động trên khu vực Biển Đông, và điều này sẽ đặt các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam vào một mối nguy hiểm mới.”
Tàu sân bay Phúc Kiến trong buổi lễ hạ thủy. Ảnh: AFP chụp màn hình CCTV
Trung Quốc luôn coi Đài Loan là một phần lãnh thổ của họ, cho nên việc cho phép quân đội thực hiện các chiến dịch quân sự ở nước ngoài không phải để nhắm đến hòn đảo tự trị này, thay vào đó thì rất có thể các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á đang có tranh chấp các đảo trên biển mới là đối tượng chính.
Bình luận về khía cạnh này, thạc sĩ Hoàng Việt nói:
“Thì điều này chắc chắn phải nhắm tới các quốc gia Đông Nam Á đầu tiên, ngoại trừ vấn đề Đài Loan thì rõ ràng các quốc gia Đông Nam Á sẽ là mục tiêu đầu tiên mà Trung Quốc nhắm tới.
Bởi vì chúng ta đã biết một trong những mục tiêu lớn nhất, và Trung Quốc không hề giấu giếm, đó là làm sao để làm chủ được Biển Đông, độc chiếm được Biển Đông. Với cái sức mạnh và với những quy định được đưa ra như vậy thì rõ ràng cho thấy Trung Quốc đang nhắm tới khu vực này.
Trong suốt thời gian vừa qua thì chúng ta thấy với những hoạt động ngoại giao, cũng như các hoạt động khác nhau thì Trung Quốc đang muốn đặt khu vực Đông Nam Á ít nhất là trong vùng ảnh hưởng của mình.”
Việt Nam đánh mất “anh em tốt” Lào và Campuchia vào tay Trung Quốc?
Trong vài năm qua, thông qua con bài “nửa thuộc địa” Trung Quốc đã bắt đầu lôi kéo Campuchia và Lào ra khỏi “quỹ đạo” của Việt Nam. Theo chuyên gia quốc tế, Việt Nam đang đánh mất những người anh em, bằng hữu tốt nhất là Lào và Campuchia vào tay Bắc Kinh.
Cùng với lối hành xử hung hăng ngày càng tăng của Bắc Kinh ở Biển Đông, Hà Nội sẽ ngày càng cảm thấy áp lực trước thế bao vây địa chiến lược, khi Lào và Campuchia đang dần “ngả” về phía Trung Quốc vì nhiều lợi ích chính trị, kinh tế, quân sự, quốc phòng.
Thủ tướng Hun Sen thậm chí còn thể hiện “lòng trung thành” của mình với Trung Quốc rõ hơn nữa bằng cách xét lại lịch sử của Bắc Kinh về sự ủng hộ của Trung Quốc đối với Khmer Đỏ hay “ngó lơ”, bỏ qua những vi phạm mà Bắc Kinh gây ra đối với Việt Nam ở Biển Đông.
Việt Nam không bao giờ quên những người anh em Lào và Campuchia
Tác giả Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng cấp cao tại Tập đoàn phi lợi nhuận RAND, Giáo sư trợ giảng tại Đại học Nam California, Hoa Kỳ về quan hệ quốc tế, đồng thời là cây bút cộng tác thường xuyên cho The Diplomat vừa có bài viết phân tích đáng chú ý về việc thay đổi “trục quan hệ” Việt Nam – Lào – Campuchia trong tầm ảnh hưởng của Trung Quốc.
Đặc biệt là thông qua những “con bài” chính trị - kinh tế- ngoại giao- quốc phòng quân sự và tuyên truyền “mật ngọt”.
Các nhà quan sát về quan hệ đối ngoại của Việt Nam ghi nhận rằng Hà Nội đang duy trì ba cấp độ quan hệ đối tác rõ rệt trong chính sách ngoại giao “khôn khéo” của mình. Theo thứ tự tầm quan trọng giảm dần, các cấp độ này bao gồm: “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện”, “quan hệ đối tác chiến lược” và “quan hệ đối tác toàn diện”.
Ở cấp độ cao nhất, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện bao gồm toàn bộ các hoạt động hợp tác với Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, trong đó quan hệ với Trung Quốc được xếp là “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”.
Quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia như Australia và Nhật Bản cho thấy Việt Nam và đối tác có chung lợi ích chiến lược lâu dài.
Quan hệ đối tác toàn diện phổ biến hơn và bao gồm các quốc gia không nhất thiết (nhưng có thể) chia sẻ lợi ích chiến lược dài hạn chung. Điển hình, theo nhà nghiên cứu Grossman, Hoa Kỳ là một đối tác toàn diện nổi bật thực sự hoạt động ở cấp chiến lược khi hai quốc gia đang hợp tác để đẩy lùi Trung Quốc – “người bạn” của Việt Nam nhưng cũng là “đối thủ” trong một số lĩnh vực, đặc biệt là về vấn đề tranh chấp lãnh thổ Biển Đông dai dẳng và gay gắt trong nhiều thập kỷ qua.
Theo vị chuyên gia, dù thế nào đi nữa, phần lớn các bài viết phân tích về quan hệ đối tác nước ngoài của Việt Nam đều tập trung vào hệ thống phân cấp của quan hệ đối tác. Tuy nhiên, điều ít được thảo luận hoặc hiểu rõ hơn là “quan hệ đối tác chiến lược đặc biệt” của Hà Nội với các quốc gia láng giềng Campuchia và Lào.
Mối quan hệ đối tác “đoàn kết đặc biệt” này có từ thời Chiến tranh Việt Nam, trong đó hai quốc gia Lào và Campuchia đã tham gia hỗ trợ hậu cần quan trọng và là nơi trú ẩn an toàn cho lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh, góp phần đánh bại quân đội Mỹ thời điểm đó.
“Hà Nội không bao giờ quên sự hy sinh to lớn của những người anh em Đông Dương (Đường mòn Hồ Chí Minh là nơi bị đánh bom nhiều nhất trên Trái đất này) và luôn coi trọng họ (Lào, Campuchia, hay xa hơn là anh em Cuba – phóng viên), hơn tất cả các đối tác khác”, theo chuyên gia Derek Grossman.
Việt Nam đánh mất những người anh em tốt vào tay Trung Quốc thế nào?
Trong nhiều thập kỷ, quan hệ đối tác chiến lược đặc biệt của Hà Nội không bị gián đoạn. Nhưng trong những năm gần đây, Trung Quốc đang ngày càng thách thức vị thế và tầm ảnh hưởng của Việt Nam ở Campuchia và Lào, chủ yếu bằng cách tận dụng dự án Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) để nâng cao ảnh hưởng của mình trong khu vực.
Tuy nhiên, theo chuyên gia phân tích quốc phòng cấp cao của viện nghiên cứu Rand Corporation, trong bối cảnh hàng loạt thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, Hà Nội dường như đã phải bắt đầu cân nhắc về mối quan hệ hiện tại với Campuchia và Lào để đưa ra các quyết định phù hợp với an ninh quốc gia của mình. Đảng, Chính phủ và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định lập trường đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên cao nhất.
Việc Trung Quốc tăng cường quan hệ với Campuchia và Lào trong những năm gần đây đã gây ra những tác động thực sự đối với Việt Nam.
“Ví dụ, sự ủng hộ của Trung Quốc có thể đã góp phần nào vào các quyết định của Campuchia và Lào như không hoàn toàn dứt khoát, quyết đoán ủng hộ lập trường của Việt Nam về đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ASEAN ở Biển Đông”, ông Grossman nói.
Về Campuchia, có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại. Thủ tướng Campuchia Hun Sen, người đã cầm quyền trong 35 năm, được Việt Nam hỗ trợ từ cuối những năm 1970 khi ông còn là thành viên của quân đội nổi dậy nhằm lật đổ Khmer Đỏ do phía Trung Quốc hậu thuẫn.
Thủ tướng đương nhiệm của Campuchia cũng nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Hà Nội trong suốt những năm 1980, khi chính phủ của ông Hun Sen bị Trung Quốc, Hoa Kỳ và các đối tác của họ trong ASEAN cấm vận.
Lòng trung thành của Thủ tướng Hun Sen: Trung Quốc và Campuchia là “bạn tốt”
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, guồng quay đã xoay chuyển và Hun Sen trở thành “bạn tốt” của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Vị chuyên gia dẫn chứng, ông Hun Sen đã trở thành nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến thăm ông Tập ở Trung Quốc trong bối cảnh đại dịch Covid-19.
Ông Hun Sen cũng gọi Campuchia và Trung Quốc là “những người bạn kiên định”.
“Thủ tướng Hun Sen đã thể hiện “lòng trung thành” của mình với Trung Quốc tiến thêm một bước nữa bằng cách xét lại lịch sử của Bắc Kinh về sự ủng hộ của Trung Quốc đối với Khmer Đỏ”, chuyên gia nêu rõ.
Thủ tướng Campuchia còn bỏ qua bất kỳ cuộc trao đổi nào về những vi phạm của Trung Quốc, đặc biệt là những vi phạm mà Bắc Kinh gây ra đối với Việt Nam.
Vào giữa tháng 10, Chính phủ Hun Sen đã chào đón Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị và hai bên đã ký kết hiệp định thương mại tự do mới, được đàm phán trong vòng chưa đầy một năm.
Trung Quốc là nhà tài trợ lớn nhất và nhà đầu tư cũng như đối tác thương mại hàng đầu của Campuchia. Campuchia cũng là nước tham gia tích cực vào dự án BRI với quy mô ít nhất 5,3 tỷ USD và Phnom Penh đang hưởng lợi từ các dự án cơ sở hạ tầng bao gồm đường xá, cầu, sân bay, đường sắt, đập thủy điện và các đặc khu kinh tế (SEZ).
Ở các khu vực khác trên thế giới, chẳng hạn như Sri Lanka, Bắc Kinh đã tận dụng dự án BRI để đạt được lợi ích địa chính trị một khi nước nhận đầu tư nhận ra rằng họ không còn khả năng chi trả cho những món nợ khổng lồ.
Thủ tướng Hun Sen lên tiếng bác bỏ những lo ngại tương tự đối với Campuchia hay việc ông thành “con rối” của Trung Quốc mặc dù một số nhà quan sát tin rằng Phnom Penh đã từ bỏ một số chủ quyền của mình do các thỏa thuận BRI, đặc biệt là trong các đặc khu kinh tế SEZ do Trung Quốc sở hữu.
Mặc dù đích thân Thủ tướng Hun Sen bác bỏ thông tin cho rằng Trung Quốc đang có kế hoạch xây dựng căn cứ hải quân và không quân tại Ream và Dara Sakor, nhưng rõ ràng Bắc Kinh đang tham gia vào việc tài trợ xây dựng cơ sở hạ tầng tại những địa điểm này, điều này có thể cho phép họ tiếp cận ưu đãi không nhỏ trong tương lai.
“Tiếp tục suy đoán xa hơn, vào tháng 9, Campuchia đã phá dỡ các cơ sở của Mỹ tại Ream mà không thông báo cho Washington, cho thấy rõ ràng rằng Phnom Penh đã cố gắng làm điều đó một cách bí mật”, chuyên gia cho biết.
Nhiều hình ảnh cho thấy các đường băng tại Dara Sakor có thể chứa máy bay quân sự Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc và Campuchia còn tiếp tục tổ chức các cuộc tập trận quân sự chung bất chấp đại dịch, nhấn mạnh tầm quan trọng của mỗi bên trong các cam kết này.
Nếu Bắc Kinh có bất kỳ mức độ tiếp cận nào đến Ream hoặc Dara Sakor dọc theo Vịnh Thái Lan, hoặc, trong trường hợp xấu nhất, Bắc Kinh bất ngờ sở hữu và vận hành các căn cứ, điều này sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sườn phía Tây của Việt Nam.
“Cùng với sự quyết đoán ngày càng tăng của Bắc Kinh ở Biển Đông, Hà Nội sẽ ngày càng cảm thấy áp lực của sự bao vây địa chiến lược”, chuyên gia Grossman bày tỏ.
Lào có thành “nửa thuộc địa” của Trung Quốc?
Đối với nước láng giềng Đông Dương khác của Việt Nam là Lào, tình hình cũng có nhiều điểm gây lo ngại, theo chuyên gia Grossman.
Ngoài chuyến thăm Campuchia vào tháng trước, ông Vương Nghị cũng đã dừng chân ở Lào để quảng cáo hợp tác song phương về cứu trợ đại dịch và BRI.
Về điểm thứ hai, Lào đang mắc nợ Trung Quốc rất lớn. Vientiane rõ ràng không đủ khả năng chi trả cho các dự án cơ sở hạ tầng BRI khổng lồ ở Lào, bao gồm việc xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc kéo dài từ tỉnh Vân Nam của Trung Quốc đến thủ đô Vientiane, cũng như các đập thủy điện dọc sông Mekong.
Thay vì có các khoản tiền cần thiết để trả các khoản vay cho các dự án BRI, Lào dường như sẵn sàng cung cấp các tài sản có giá trị khác cho chủ nợ lớn nhất của mình.
“Ví dụ, vào giữa tháng 9, một công ty quốc doanh Trung Quốc đã nắm quyền kiểm soát phần lớn lưới điện của Lào. Thậm chí có những lo ngại rằng Vientiane sẵn sàng trả các khoản nợ của Trung Quốc bằng cách sử dụng chuyển nhượng đất đai”, chuyên gia chỉ rõ.
Giống như ở Campuchia, Lào đang tích cực tham gia vào các hoạt động SEZ với Trung Quốc. Các công ty Trung Quốc đã và đang phát triển một khu nghỉ dưỡng tại Boten ở phía bắc Lào dọc theo biên giới Trung Quốc, và nhiều SEZ khác đã tồn tại hoặc sắp đi vào hoạt động.
Thông thường, các đặc khu kinh tế SEZ cấp cho Trung Quốc các hợp đồng cho thuê kéo dài nhiều thập kỷ để phát triển đất đai. Trong trường hợp của Boten, Lào đã đồng ý thỏa thuận thuê đất 90 năm với Trung Quốc.
“Cũng giống như ở Campuchia, những thỏa thuận như vậy tạo ấn tượng rằng Lào đang trở thành, hoặc đã trở thành một “nửa thuộc địa của Trung Quốc”, chuyên gia thẳng thắn.
Cuối cùng, việc xây dựng đập thủy điện do Trung Quốc tài trợ ở Lào thông qua BRI - để cuối cùng biến nó thành “Ắc-quy của Đông Nam Á” - là mối quan tâm đặc biệt với Việt Nam.
Những con đập này hạn chế dòng chảy của nước đến Đồng bằng sông Cửu Long, gây ra khó khăn trong canh tác lúa ở các lưu vực của Việt Nam, ảnh hưởng đến hàng triệu người và sinh kế của họ.
Việc giảm lượng cá và trầm tích càng làm trầm trọng thêm các thách thức về môi trường. Các đập của Trung Quốc ở Campuchia, tuy không nhiều, nhưng cũng là mối quan tâm lớn của Hà Nội.
Một loạt các hoạt động của Trung Quốc với các “đối tác chiến lược đặc biệt” truyền thống của Việt Nam hẳn sẽ phần nào có tác động đến đối sách của các nhà lãnh đạo Việt Nam.
“Mặc dù ít công khai hơn, tương tác của Việt Nam với Campuchia và Lào vẫn tiếp tục đặc biệt chặt chẽ bất chấp ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực”, vị chuyên gia nhấn mạnh.
Trong thời gian tới, Hà Nội có thể sẽ phải tìm các biện pháp thay thế để hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực Đông Dương quan trọng này trong những năm tới, để tình anh em Việt – Lào – Campuchia giữ được bản chất và sự giúp đỡ trong sáng, “không nhuốm màu chính trị” trong bối cảnh biến động mới.
Căn cứ hải quân Trung Quốc tại Campuchia khiến Việt Nam và những nước khác quan ngại
Nhóm phóng viên RFA 08-6-2022
Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia (phải) và đại sứ Trung Quốc tại Campuchia (trái) tại lễ động thổ căn cứ Ream ở Preah Sihanouk vào ngày 8/6/2022
AFP
Những diễn tiến mới nhất tại Căn cứ Hải quân Ream ở Campuchia, nơi mà Trung Quốc đang xây dựng cơ sở cho quân đội của họ có thể sử dụng, khiến Việt Nam quan ngại dù không nói ra và các nhà chiến lược quân sự Hà Nội theo dõi sát những biến chuyển bên kia biên giới.
Các nguồn tin ngoại giao cho hay vấn đề căn cứ Ream và sự can dự của Bắc Kinh vào những dự án chiến lược tại Xứ Chùa Tháp chắc hẳn có trong chương trình nghị sự những cuộc họp của Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Wendy Sherman khi bà đến thăm Việt Nam vào cuối tuần này.
Theo kế hoạch, thứ trưởng Sherman sẽ đến Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội từ ngày 10 đến 13 tháng sáu. Bà sẽ có những cuộc gặp với quan chức Việt Nam gồm phó thủ tướng Lê Văn Thành, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn và Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc.
Thứ trưởng Ngoại giaoWendy Sherman sẽ không gặp các quan chức quốc phòng Việt Nam vì trùng lịch; tuy nhiên trong một chuyến tăm tương tự vào năm 2014, bà Wendy Sherman đã gặp tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng và là chiến lược gia chính về Campuchia của Việt Nam.
Lúc đó bà là phó Ngoại trưởng phụ trách Chính trị sự vụ.
Căn cứ Ream chụp hồi ngày 26/7/2019. Ảnh AFP
Quan hệ lịch sử
Việt Nam không chỉ là nước láng giềng với Campuchia mà còn là ‘người anh em từ Đông Dương’ và đồng minh truyền thống.
Chính phủ Phnonh Penh hiện nay được Hà Nội dựng nên sau khi quân Việt Nam đánh bại quân Khmer Đỏ vào năm 1979. Thủ tướng Hun Sen, một người nói Tiếng Việt lưu loát, thường bị giới chỉ trích tại Campuchia gọi là ‘con rối’ của Việt Nam ngay từ khi khởi sự cuộc đời chính trị của ông.
Tin tức về dự án phát triển được Trung Quốc hỗ trợ, mà theo đó Bắc Kinh sẽ giúp Phnom Penh cải tạo và nâng cấp nhưng cơ sở tại Ream, cho thấy mức độ mất mát của ảnh hưởng Việt Nam tại Campuchia trong những năm gần đây.
Một nhà phân tích người Việt muốn ẩn danh bì tính nhạy cảm của vấn đề phát biểu : “Việt Nam dĩ nhiên quan ngại vì căn cứ Ream nằm rất sát với căn cứ ở đảo Phú Quốc.”
Trên thực tế, Căn cứ Hải quân Ream ở tỉnh Preah Sihanouk thuộc mạn tây nam Campuchia bên Vịnh Thái Lan chỉ cách Phú Quốc không đến 30 kilomet. Đảo này theo tiếng Khmer là Koh Tral.
Chính Hải quân Việt Nam hồi tháng 1/1979 đã chiếm căn cứ Ream từ quân Pol Pol rồi chuyển từ Khmer Đỏ cho tân chính phủ Campuchia.
Tuy vậy Hải quân Việt Nam sau đó chỉ được mời đến thăm Căn cứ Ream một đôi lần và gần đây tòa nhà ‘Hữu nghị Việt Nam’ được xây bởi phía Hà Nội đã bị dời khỏi căn cứ này mà theo báo cáo là nhằm tránh xung đột với các nhân sự Trung Quốc.
Nhà phân tích người Việt nói thêm: “Cũng có một sự thất vọng lớn; tuy nhiên theo tôi sự can dự của Trung Quốc ở căn cứ này không nhắm đến Việt Nam mà hơn thế là để cho chính phủ Campuchia đưa ra một thông điệp thách thức và một dấu chỉ cảnh báo đối với Hoa Kỳ.”
Vào tháng 7/1982, Hà Nội và Phnom Penh ký một thỏa thuận về ‘vùng nước lịch sử’ giữa hai nước để phân định biên giới biển và chủ quyền đối với các đảo trong Vịnh Thái Lan. Mục đích để giảm thiểu hiểu nhầm và ngăn ngừa những xung đột có thể xảy ra.
Thủ tướng Hun Sen cắt băng khánh thành Sân vận động Techo ở Phnom Penh do Trung Quốc tài trợ hôm 18/12/2021. Ảnh AFP
Thế an ninh lưỡng nan
Can dự của Bắc Kinh tại Ream gây nên tranh cãi ở Phương Tây khi mà Hoa Kỳ thấy ra mối đe dọa Trung Quốc có được cơ sở hải quân đầu tiên trên đất Đông Nam Á. Căn cứ này có thể cho phép Bắc Kinh mở rộng tuần tra khắp Biển Đông.
Quan ngại về căn cứ Ream có từ năm 2019 khi mà Tờ Wall Street Journal loan tin về một thỏa thuận bí mật cho phép Trung Quốc cắt đặt nhân sự, tàng trữ vũ khí và cho chiến hạm trấn đóng ở đó.
Campuchia và Trung Quốc luôn bác bỏ thông tin đó, nói rằng’ việc cải tạo căn cứ chỉ nhằm tăng cường khả năng hải quân của Xứ Chùa Tháp trong công tác bảo vệ toàn vẹn vùng biển và chống tội ác trên biển.”
Washington từng than phiền “về sự thiếu minh bạch trong mục đích, bản chất và phạm vi của dự án này, cũng như vai trò mà quân đội Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đóng trong công tác xây dựng và việc sử dụng hậu xây dựng cơ sở này.”
Nhà nghiên cứu Sovinda Po tại Viện Hợp tác & Hòa Bình Campuchia có phát biểu : “Những tin tức mới nhất về Căn cứ Hải quân Ream là một dấu chỉ thêm nữa cho thấy Hoa Kỳ không chấp nhận thực tế Campuchia và Trung Quốc đã là đối tác thân cận tại Đông Nam Á. Lý do chính đằng sau những cáo buộc thường xuyên của Hoa Kỳ là nhằm cảnh báo chính phủ Campuchia đừng qua kết thân cới Trung Quốc.”
Vị chuyên gia Campuchia này phân tích tiếp: “Việt Nam cũng không vui khi thấy Trung Quốc tiến gần hơn đến lãnh thổ của họ vỉ Hà Nội và Bắc Kinh đang có những tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông cũng như niềm tin vào nhau giữa đôi bên xuống thấp.”
Chuyên gia Sovinda Po cho rằng căn cứ hải quân và những diễn tiến quanh nó do đó trở nên một thế an inh lưỡng nan lớn cho Campuchia, Việt Nam, Hoa Kỳ và Trung Quốc.
“Bình thường mới”
Trung Quốc đã có được sức mạnh biển lớn nhất thế giới với 355 tàu chiến và dự kiến số này lên đến 460 chiếc vào năm 2030. Đây là số liệu theo báo cáo mới nhất của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về quân đội Trung Quốc.
Phía Hoa Kỳ có 297 tàu trong lực lượng chiến đấu nhưng hoạt động tại hơn 800 căn cứ quân sự ở hải ngoại.
Chuyên gia về chính sách quốc phòng ở Singapore Blake Herzinger và cũng là một sĩ quan Hải quân dự bị người Mỹ cho rằng ‘Đây là một bình thường mới, Trung Quốc sẽ tìm kiếm những căn cứ ở nước ngoài như chúng ta làm.”
Và trên tài khoản Twitter ông Blake Herzinger viết “Nếu chúng ta nghĩ việc loại trừ những quốc gia chọn hợp tác với Trung Quốc sẽ làm được điều gì đó hơn là khiến chúng ta giống như họ, thì chúng ta vô cùng nhầm lẫn.”
Mối quan hệ Hoa Kỳ- Trung Quốc trở nên căng thẳng trong những năm gần đây bởi nhiều yếu tố gồm có sự khác biệt về quyền lợi chiến lược và địa chính trị, vấn đề nhân quyền, dân chủ và vai trò của Trung Quốc trong khu vực.
Ngược lại, trong suốt thập niên qua dưới cái gọi là Sáng kiến Vành đai- Con đường (BRI), Trung Quốc đã bơm đầu tư vào những dự án hạ tầng quan trong ở Campuchia gồm Đặc khu Kinh tế Shihanukville, Đường cao tốc Phnom Penh-Sihanoukville , sân bay quốc tế mới Siem Reap, đường xá, cầu cống và những nhà máy thủy điện.
Thủ tướng Hun Sen từng phát biểu câu nổi tiếng tại một diễn đàn khu vực vào năm 2021 rằng : “Nếu tôi không dựa vào Trung Quốc, thì tôi dựa vào ai? Nếu tôi không yêu cầu Trung Quốc, thì tôi yêu cầu ai?”
Chuyên gia Blake Herzinger nói rằng: “ Đã đến lúc phải công nhận ảnh hưởng của Hoa Kỳ hết sức giới hạn tại một khu vực cạnh tranh nơi mà mà số đối lại là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC). Sự bắt nạt công khai không thể giành được Campuchia.”
Vì sao Hun Sen chọn Việt Nam để xin giúp đỡ tiêu diệt quân Pol Pot?
Con đường cứu nước của Thủ tướng Campuchia Samdech Hun Sen không thể thiếu vai trò đặc biệt quan trọng của Việt Nam.
Vì sao ông Hun Sen chọn Việt Nam để kêu gọi sự giúp đỡ cứu lấy Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot?
Vì sao Hun Sen chọn Việt Nam để giúp đỡ?
Như Sputnik đưa tin, cách đây 55 năm (ngày 24/6/1967), Việt Nam và Campuchia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
Mốc son này đã đi vào lịch sử hai nước như một sự kiện trọng đại, mở ra một chương mới trong quan hệ hai nước, gắn bó vận mệnh của hai dân tộc láng giềng.
Có thể khẳng định rằng, dù gặp những thăng trầm của lịch sử và những biến cố của thời đại, quan hệ Việt Nam-Campuchia vẫn ngày càng trở nên khăng khít, bền chặt, được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước không ngừng vun đắp, gìn giữ, trở thành tài sản vô giá của hai dân tộc.
Xin nhắc lại, năm nay 2022 cũng là kỷ niệm 45 năm hành trình tìm đường cứu nước của Thủ tướng Hun Sen.
Đúng 45 năm trước đây, ngày 20/6/1977-20/06/2022, Thủ tướng Campuchia Hun Sen, khi đó là Trung tá trong hàng ngũ của Pol Pot cùng với một số đồng đội đã buông súng, băng rừng, vượt suối sang Việt Nam.
Ông Hun Sen cùng đồng đội của mình giữ ước vọng đánh tan chế độ diệt chủng Pol Pot, cứu người dân Campuchia đang đứng bên bờ vực của diệt chủng.
Như đã biết, nhờ sự giúp đỡ quân và dân Việt Nam – đội quân Nhà Phật, ông Hun Sen cùng với các đồng đội đã từng bước xây dựng lực lượng vũ trang trong nước và cùng quân tình nguyện Việt Nam lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot ngày 07/01/1979, cứu hàng triệu người dân Campuchia thoát khỏi “lưỡi hái của tử thần”, mang lại hòa bình và thịnh vượng cho Campuchia có được cơ đồ như ngày nay.
Chuyên gia Long Dany, Giám đốc trung tâm tư liệu Koh Thmor, Trung tâm tư liệu quốc gia Campuchia đã bình luận về ý nghĩa lịch sử của sự kiện Thủ tướng Hun Sen ra đi tìm đường cứu nước cũng như lý giải vì sao Hun Sen chọn Việt Nam để kêu gọi sự giúp đỡ.
Đánh giá về lựa chọn tìm đường cứu nước của ông Hun Sen, chuyên gia Long Dany khẳng định trong cuộc trao đổi với VOV rằng, đây là một sự kiện rất quan trọng, đánh dấu thời điểm bắt đầu quá trình chiến đấu, hy sinh đầy gian khổ của Samdech Hun Sen và các nhà lãnh đạo khác vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đánh đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ.
Đồng thời, đó cũng là dấu mốc lịch sử quan trọng khi ông Samdech Hun Sen quyết định chọn Việt Nam để kêu gọi sự giúp đỡ trong hoàn cảnh khó khăn nhất, gian nguy nhất.
“Lịch sử đã chứng minh rằng quyết định của ông Hun Sen hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt khi đặt niềm tin vào những người bạn Việt Nam, những người đã giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng dưới ách thống trị bạo tàn của bè lũ Pol Pot”, ông Long Dany nói.
Ngay cả bản thân ông Hun Sen cũng từng khẳng định rằng, ông sẵn sàng lấy sinh mạng của mình để làm vốn chiến đấu lật đổ chế độ Pol Pot, mang lại sự sống cho cả dân tộc Campuchia.
Đánh giá về sự giúp đỡ chân tình của quân và dân Việt Nam, ông Long Dany cho biết, trong quá trình giải phóng Campuchia, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ, Việt Nam giữ vai trò hết sức quan trọng.
“Nếu như không có những người lính tình nguyện Việt Nam xuất hiện, không có sự giúp đỡ từ Việt Nam thì quân giải phóng Campuchia khi đó còn non nớt, lực lượng mỏng, yếu, rất khó có thể đánh đổ được chế độ diệt chủng Khmer Đỏ”, chuyên gia nhận định.
Ông Long Dany cũng lưu ý thêm rằng, mặc dù đất nước Việt Nam khi đó cũng vừa mới bước ra từ một cuộc chiến tranh, nhưng đã bất chấp khó khăn, hy sinh cả xương máu để giúp đỡ Campuchia, nhân dân Campuchia luôn luôn ghi nhớ công lao này.
“Việc lật đổ chế độ Pol Pot có giá trị vô cùng to lớn và không gì có thể so sánh được, bởi việc này đã cứu giúp hơn 5 triệu người dân Campuchia còn lại được sống. Cũng từ đây mà đất nước Campuchia đã được hồi sinh và phát triển như ngày nay”, Giám đốc trung tâm tư liệu Koh Thmor, Trung tâm tư liệu quốc gia Campuchia chỉ rõ.
Từ góc nhìn của một chuyên gia, ông Long Dany nhấn mạnh, việc nghiên cứu và giáo dục về tội ác của chế độ diệt chủng là hết sức quan trọng.
“Nếu chúng ta hiểu rõ về tội ác của Pol Pot, chúng ta sẽ biết đánh giá, biết tìm cách ngăn chặn không cho những hành động bạo tàn này quay trở lại Campuchia, ASEAN hay bất kỳ đất nước nào trên thế giới”, ông nói.
Cùng với đó, ông Long Dany cho rằng, cần phải tăng cường nghiên cứu, học tập lịch sử, đặc biệt là mối quan hệ keo sơn giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia.
“Nếu như thế hệ trẻ hai nước hiểu về lịch sử thì sẽ càng hiểu nhau hơn, gần gũi nhau hơn và mối quan hệ giữa nhân dân hai nước Campuchia – Việt Nam sẽ ngày càng phát triển bền chặt hơn nữa”, Giám đốc trung tâm tư liệu Koh Thmor tin tưởng.
Tiến sĩ Kin Phea, Phó Viện trưởng viện Hàn lâm Campuchia đánh giá, sự hợp tác, tình đoàn kết, hữu nghị và hỗ trợ từ bộ đội tình nguyện Việt Nam đối với Campuchia có giá trị lịch sử mãi mãi và “không gì có thể xóa nhòa được”.
TS. Phea nhấn mạnh, sự giúp đỡ của Việt Nam đối với mặt trận đoàn kết cứu quốc Campuchia rất quan trọng, góp phần lật đổ chế độ Khmer Đỏ và xây dựng lại đất nước Campuchia.
“Những thành tựu mà Việt Nam và Campuchia cùng đạt được trong suốt 55 năm qua, không chỉ là thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn biểu hiện ở sự phát triển quan hệ trên tất cả các lĩnh vực trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”, chuyên gia nhấn mạnh.
Bất chấp sự gián đoạn của đại dịch Covid-19, quan hệ Việt Nam - Campuchia vẫn không ngừng được thúc đẩy. Hai nước chung tay phòng chống dịch bệnh hiệu quả, giúp đỡ nhau bằng nhiều hình thức cả về tinh thần và vật chất. Hai nước thường xuyên phối hợp chặt chẽ, chia sẻ thông tin kịp thời và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là trong khuôn khổ hợp tác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên Hợp Quốc và các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mekong.
“Với sự gìn giữ, vun đắp của nhân dân hai nước, quan hệ Việt Nam-Campuchia hiện nay đang phát triển tốt đẹp theo phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”, ông Phea khẳng định.
Trong khi đó, Đại sứ Việt Nam tại Campuchia Nguyễn Huy Tăng cho rằng, chúng ta tiếp tục thúc đẩy hợp tác mạnh mẽ trong lĩnh vực chính trị để đảm bảo định hướng tổng thể quan hệ hai nước, đẩy mạnh việc giáo dục các tầng lớp nhân hai nước, nhất là thế hệ trẻ về vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược của mối quan hệ Việt Nam-Campuchia cũng như ý nghĩa sống còn của mối quan hệ này, để từ đó củng cố, nâng cao niềm tin chính trị, tạo nền tảng xã hội vững chắc cho việc thúc đẩy, tăng cường quan hệ toàn diện hai nước.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Đây là những trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước, góp phần giữ vững môi trường cho sự phát triển của quốc gia. Quan trọng nhất, theo Đại sứ Nguyễn Huy Tăng, hai bên đẩy mạnh hợp tác kinh tế, tạo ra động lực mới, tạo ra nguồn lực đảm bảo cho sự phát triển bền vững quan hệ Việt Nam-Campuchia.
Ngày 24/6/1967 là một mốc son trong lịch sử mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống gắn bó nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia. Tình đoàn kết hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Campuchia 55 năm qua góp phần quan trọng vào những thành tựu đạt được ở mỗi quốc gia, là cơ sở, nền tảng vững chắc để hai nước tiếp tục phát huy trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
Tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao vừa qua, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng khẳng định, Việt Nam luôn mong muốn duy trì và củng cố quan hệ hợp tác tốt đẹp với các quốc gia trên toàn thế giới.