Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Sáu 2023
T2T3T4T5T6T7CN
      1 2 3 4
5 6 7 8 9 10 11
12 13 14 15 16 17 18
19 20 21 22 23 24 25
26 27 28 29 30    
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 4
 Lượt truy cập: 22869744

 
Tin tức - Sự kiện 03.06.2023 20:29
Tại sao TQ ra lệnh VN chỉ được chọn tổng bí thư ngươì miền Bắc sau khi Lê Duẫn người miền Trung dám chống TQ?
17.02.2023 21:00

Chiến tranh Việt – Trung ngày 17-2-1979 và quan hệ ngày nay

Nguyễn Tuấn Khoa

Lê Duẩn và Trung Quốc

Mới đây ông Trần Bình Nam, một nhà nghiên cứu Trung Quốc có bài viết nhận định rằng Tổng bí thư Lê Duẩn là người hiểu rõ và có thái độ chống đối Trung Quốc mạnh mẽ nhất so với tất cả các thời đại Tổng bí thư sau ông.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2011.09.05
Share o­n WhatsApp
Share o­n WhatsApp
Tổng bí thư Lê Duẩn về thăm Diễn ChâuTổng bí thư Lê Duẩn về thăm Diễn Châu
ảnh tư liệu

Mặc Lâm :  Thưa ông, câu đầu tiên chúng tôi muốn hỏi là sau khi nghiên cứu những tài liệu của ông TBT Lê Duẩn để lại thì ông có nghĩ rằng những tài liệu đó có mức khả tín như thế nào ạ?

Ông Trần Bình Nam :Thưa anh Mặc Lâm, khi viết bài đó ngoài những tài liệu khác thì



dùng 2 tài liệu chính: Tài liệu thứ nhất là của ông Nguyễn Thành Thơ, một cán bộNhân 44 năm ngày chiến tranh Việt-Trung năm 1979, tôi đọc lại hai quyển sách bên dưới, tóm tắt những sự kiện quan trọng để có thêm thông tin mà chúng ta không có được từ sách báo trong nước, về một cuộc chiến mà cho đến nay số liệu vẫn còn mù mờ:

1. Brother Enemy (Huynh Đệ Tương Tàn), tập The War After the War (Chiến Tranh Nối Tiếp Chiến Tranh) của ký giả kỳ cựu tạp chí Far Eastern Economic Review, ông Nayan Chanda (1988- Publisher New York Macmillan)

2. Việt Nam, 1945-1975 – Chiến Tranh, Tỵ Nạn và Bài Học Lịch Sử của giáo sư Lê Xuân Khoa, giáo sư thỉnh giảng đại học Johns Hopkins (2004 – NXB Tiên Rồng).

trung kiên, hồi ký của ông có thể nói là vô tình hay hữu duyên mà đầu năm 2009 thì tôi đọc được; và tài liệu thứ hai là bài nói của ông cựu TBT Lê Duẩn. Phán đoán qua nội dung và cách viết, cách nói, một cách đơn giản thì tôi tin đó là những tài liệu tin cậy được. Riêng về bài nói của ông Lê Duẩn thì có một sử gia tên là Christopher Goscha – ông này ổng làm việc cho Trung tâm Nghiên cứu Woodrow Wilson ở Hoa Thịnh Đốn, hoặc là ông xin được, hoặc ông mua được, hoặc ông tìm tòi đâu đó trong thư viện của quân đội cộng sản Việt Nam, và ông đã dịch ra Anh ngữ cho trung tâm này. Dựa trên sự kiện đó tôi nghĩ những tài liệu mà tôi đã dùng để viết bài “Lê Duẩn và Trung Quốc” là những tài liệu có thể tin cậy được đó anh Mặc Lâm.

Dã tâm bắt đầu từ Hội nghị Geneve

Mặc Lâm : Có thể chúng ta bắt đầu đi ngược về quá khứ một chút, từ khi hiệp định Geneve thì lúc này ông Lê Duẩn cũng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ dã tâm của Chu Ân Lai là họ muốn xé VN thành hai mảnh, nhưng miền Bắc vẫn nhờ cậy Trung Quốc để viện trợ khí tài mà đánh vào miền Nam, phải chăng đây là lý do khiến mối họa Trung Quốc vẫn theo đuổi và kéo dài cho đến chế độ hiện thời hay không, thưa ông?
Ông Trần Bình Nam : Thưa anh Mặc Lâm, tôi nghĩ đó cũng là một lý do quan trọng. Sự đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam, như chúng ta được biết là một đe dọa có tính cách lịch sử, nó kéo dài cả nghìn năn rồi. Và Đang CSVN càng thấy rõ hơn qua cái vụ Trung Quốc ép ông Hồ Chí Minh và ông Phạm Văn Đồng ký Hiệp định Geneva chia đôi đất nước Việt Nam, nhưng sau đó ông Hồ Chí Minh vừa muốn tái thiết Miền Bắc, vừa muốn xâm lăng Miền Nam, cho nên ông phải nhờ vào tiền bạc và khí giới của Trung Quốc.

Tổng bí thư Lê Duẩn với Lâm Ngọc Thiềm, sinh viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (ĐHTHHN) 1972 (Ảnh tư liệu) Vietbao
Tổng bí thư Lê Duẩn với Lâm Ngọc Thiềm, sinh viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (ĐHTHHN) 1972 (Ảnh tư liệu) Vietbao
(Ảnh tư liệu) Vietbao

Đúng như anh nhận xét, quan hệ chồng chéo này đã làm cho Việt Nam, sau khi thống nhất, thì càng bị ràng buộc vào cái mạng nhện do Trung Quốc họ bủa ra.
Mặc Lâm : Vâng. Có một yếu tố rất quan trọng làm cho người ta thắc mắc, đó là tại sao Trung Quốc không muốn miền Bắc chiến thắng miền Nam trong khi họ vẫn tiếp tục viện trợ vũ khí cho miền Bắc, thưa ông?
Ông Trần Bình Nam : Về điều này, nếu chúng ta dựa vào nội dung buổi nói chuyện của ông Lê Duẩn năm 1979 thì Trung Quốc không muốn chiến tranh ở Miền Nam, nhưng Hà Nội khi rút bộ đội ra Miền Bắc theo Hiệp định Geneva thì họ đã phục lại người và vũ khí, cho nên nhờ đã phục sẵn người và vũ khí như vậy thì Hà Nội vẫn tiến tới như thường. Khi Trung Quốc thấy không ngăn cản được ý muốn của ông Hồ Chí Minh thì Trung Quốc không có lựa chọn nào tốt hơn là phải giúp, tại vì Trung Quốc nghĩ mình nếu không giúp thì Liên Xô cũng giúp thôi.
Theo Lê Duẩn, vào lúc đó Trung Quốc tính lợi dụng tình hình, giúp để đưa người vào dòm ngó Việt Nam, chuẩn bị cho những cuộc lấn chiếm sau này.

Cuộc chiến biên giới 1979

Mặc Lâm : Theo trich dẫn của ông lấy từ hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ thì ông Lê Duẩn cho rằng nếu Việt Nam không đánh Kampuchia thì Trung  Quốc sẽ không đánh Việt Nam, tuy nhiên chiến tranh biên giới năm 1979 vẫn xảy ra có phải vì Việt Nam đã tiến đánh Kampuchia hay không, thưa ông?
Ông Trần Bình Nam : À, điều đó thì hiển nhiên vì các tài liệu đều chứng minh như vậy. Chúng ta đọc hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ thì mình thấy rằng năm 1978 khi mà Kampuchia với sự xúi giục của Trung Quốc đã thường xuyên phá rối vùng biên giới Hà Tiên và Châu Đốc, và có khi họ tiến sâu cả hàng chục cây số. Và họ đốt phá, giết chóc, hãm hiếp rất là kinh khủng, nhưng mà không thấy Việt Nam đánh trả, cho nên cán bộ cộng sản tại những vùng đó thì họ rất bực bội. Có lần ông Lê Duẩn hướng dẫn một phái đoàn từ Miền Bắc đi ào Nam để thăm viếng tại huyện Cần Giờ, thì khi được hỏi, ông Lê Duẩn cho biết rằng nếu Việt Nam cử đại quân thì sẽ đánh tan quân đội Kampuchia trong một thời gian rất ngắn, nhưng mà không có làm được, vì nếu mà đánh thì sợ Trung Quốc trả đũa. Nhưng mà đó là tình hình của đầu năm 1978, nhưng vào cuối năm 1978 thì Hà Nội và Moscow đã ký với nhau một hiệp định an ninh hỗ tương cho nên Hà Nội bớt ngại sự trả đũa của Trung Quốc nếu tiến đánh Kampuchia và đã lật đổ chính phủ Pol Pot như chúng ta đã thấy.
Tuy nhiên, sau đó chúng ta biết Trung Quốc đã đánh trả, nhưng mà cũng do những áp lực của Liên Xô ở biên giới phía Bắc của Trung Quốc cho nên Trung Quốc chỉ đánh trả một cách có giới hạn mà thôi. Chúng 

Quân đội Trung Quốc tràn vào Cao Bằng Lạng Sơn năm 1979. Source DSWC China
Quân đội Trung Quốc tràn vào Cao Bằng Lạng Sơn năm 1979. Source DSWC China
Source DSWC China

ta biết là họ chỉ tiến quân vào nội trong vòng một tháng thì họ rút lui, nhưng mà họ cũng đã lợi dụng cuộc tấn công đó để chiếm thêm một ít đất, ví dụ như lấn ranh giới tại ải Nam Quan và họ chiếm luôn thác Bản Giốc của chúng ta.

Muốn đưa thêm người vào cuộc chiến

Mặc Lâm : Thưa ông, theo ông Lê Duẩn nói thì Trung Quốc đã nhiều lần muốn đưa người của họ vào cuộc chiến tranh của Việt Nam nhưng mà bị ông Lê Duẩn từ chối. Liệu câu này có đáng tin cậy hay kông, vì đâu đó vẫn có dư luận cho rằng rất nhiều chiến binh của Trung Quốc đã núp dưới danh nghĩa cố vấn hay là công nhân xây dựng và đã thiệt mạng ở trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ông Trần Bình Nam :  Vâng. Cái vụ đó chúng ta biết là trong cuộc chiến tranh Trung Quốc có đưa vào một số người thật, nhưng mà sự thật họ đòi hỏi nhiều hơn chứ không phải chỉ chừng đó, nghĩa là họ muốn đưa quân vào và giả quân đội cộng sản Bác Việt để mà đánh kịch chiến với quân đội Mỹ ở Miền Nam, nhưng ông Lê Duẩn không đồng ý. Mình đặt vấn đề là điều này có khả tín hay không thì nếu mình trở lại câu hỏi ấy đầu tiên như tôi phân tích thì tôi nghĩ cái bài nói của ông Lê Duẩn là một tài liệu khả tin thì cái điều mà anh Mặc Lâm vừa hỏi nó cũng nằm trong tài liệu này. Cho nên nếu mà chúng ta tin tài liệu đó là khả tin thì tôi nghĩ những điều quả quyết này của ông Lê Duẩn cũng là khả tín. Thái độ của Lê Duẩn thật ra nó phù hợp với nguyên tắc hành sử của ông đối với Trung Quốc.
Chắc là ông ta không quên Trung Quốc từng mượn đường vào đánh Chiêm Thành đời nhà Trần. Và gần hơn là nói vào giúp vua Chiêu Thống để có cớ kéo quân vào Hà Nội. Cho nên đối với ông Lê Duẩn, cái gì nhịn được thì nhịn, nhưng mà không nhịn những điều quá đáng có tính cách nguy hại cho an ninh quốc gia. Tôi nghĩ như vậy.
Vấn đề quân đội nước ngoài vào nước mình chiến đấu nếu mà tránh được thì cần phải tránh, cũng như là sau này chúng ta biết là ông TT Ngô Đình Diệm đã không cho phép quân đội Hoa Kỳ vào chiến đấu tại Việt Nam.

Cách nói bá quyền

Mặc Lâm : Ông TBT Lê Duẩn đã nhiều lần nói rằng ông Mao Trạch Đông vừa chơi vừa thật đã thẳng thừng cho biết là sẽ chiếm Việt Nam trước mặt ông Lê Duẩn và ông Trường Chinh; Điều này thì cả nước đã biết, nhưng mà sau thời kỳ của ông Lê Duẩn thì hình như Việt Nam lần lần đã mất cảnh giác trước ý đồ của Trung Quốc. Theo ông thì lý do chính là gì?
Ông Trần Bình Nam : Việc Mao một cách nửa kín nửa hở mà nói với ông Lê Duẩn và Trường Chinh là, nếu mà ngày xưa các anh các anh có thể thắng quân Nguyên, quân Minh và quân Thanh, nhưng mà với chúng tôi thì đánh không thắng được đâu, thì Lê Duẩn đã trả lời một cách rất là bộc trực rằng chúng tôi sẽ đánh các ông thôi. Tôi công nhận rằng ông Lê Duẩn có nói điều đó một cách nửa đùa nửa thật. Tình hình Việt 

Tổng bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch Fidel Castro.
Tổng bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch Fidel Castro.
(Ảnh tư liệu) Vietbao

Nam vào thời đó chúng ta thấy là từ năm 1986 sau khi Lê Duẩn qua đời thì tình hình quốc tế trở nên rất là bất lợi cho Việt Nam.
Hồi Mao sụp đổ vào năm 1991 thì Liên Xô cũng sụp đổ luôn, Đảng CSVN sợ sụp đổ như các nước Đông Âu nên tìm cách xích lại gần với Trung Quốc để tồn tại, và đó là lý do chính của sự mất cảnh giác đối với mối đe dọa truyền kiếp của Trung Quốc. Ở đây chúng ta có thể đặt một giả thuyết là nếu Lê Duẩn còn sống khi Liên Xô sụp đổ thì không biết ông ta sẽ hành động như thế nào trước một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn như vậy. Nhưng mà điều rõ ràng là những người kế nghiệp ông thì đã không có tài thao lược như ông ta.

Điểm yếu của Việt Nam

Mặc Lâm : Ông Lê Duẩn trước sau như một vẫn tin tưởng rằng Trung Quốc sẽ không đánh Việt Nam trong thời đại toàn cầu này, nhưng mà những hành động hồi gần đây của Trung Quốc đã cho thấy Trung Quốc đã gây áp lực rất mạnh bất kể Việt Nam đã có hoạt động tăng cường bang giao với Hoa Kỳ cũng như kêu gọi các nước trong vùng. Theo ông, điểm yếu nhất của Việt Nam hiện nay là gì mà Trung Quốc có thể khai thác được, chẳng hạn như về lãnh đạo, về kinh tế, hay là về vũ khí yếu kém, hay là cả 3 yếu tố này, thưa ông?
Ông Trần Bình Nam : Tôi nhận thấy là cả ba, anh Mặc Lâm. Nếu chúng ta nhìn vấn đề rõ hơn một chút thì chúng ta thấy như thế này, ông Lê Duẩn nhận xét rằng TrungQuốc không thể đánh Việt Nam trong thời đại có sự liên hệ quốc tế rộng rãi, nhưng mà cái nhận xét của ông là nhận xét cuối năm 1979, sau khi Trung Quốc vừa đánh Việt Nam và rút lui. Nhận xét đó tới hôm nay vẫn còn đúng. Tuy nhiên, quan hệ quốc tế vào thời đó và bây giờ khác nhau rất là nhiều. Hồi đó Trung Quốc còn yếu, Hoa Kỳ và Liên Xô là hai lực lượng kình chống Quốc thì mạnh hơn nhiều. Trái lại bây giờ thì Trung Quốc tương đối mạnh hơn, Liên Xô không còn là lực lượng kiềm chế Trung Quốc nữa, và Hoa Kỳ tuy vẫn còn khả năng kiềm chế nhưng mà khả năng này chúng ta biết nó cũng rất là giới hạn.
Kinh tế của Việt Nam thì bị lệ thuộc vào Trung Quốc cho nên cũng không mạnh được, bởi vì kinh tế không mạnh thì quân lực cũng khó hùng mạnh.
Còn lãnh đạo tại Hà Nội thì lại lo kiềm chế nhau và không có khuôn mặt nào vượt trội như là khuôn mặt Lê Duẩn ngày trước.
Tuy nhiên, tình hình Việt Nam đối với tôi cũng không phải là vô vọng. Chúng ta còn nhiều lối thoát, ví dụ như là đối ngoại thì Việt Nam cần xích lại với Ấn Độ, Nhật Bản, thân thiện với Liên Bang Nga, thân thiện với Cộng Đồng Châu Âu, và quan trọng nhất là cần liên minh chặt chẽ và cụ thể với Hoa Kỳ. Nhưng tựu trung không có chiến lược giữ nước nào mà thành công nếu những người lãnh đạo chưa huy động được nội lực của nhân dân, và không thể huy động được nội lực của nhân dân nếu Đảng CSVN chưa có một chương trình cải tổ chính trị.
Mặc Lâm : Một lần nữa, xin cảm ơn nhà nghiên cứu về Trung Quốc Trần Bình Nam đã cho chúng tôi cơ hội được thực hiện cuộc phỏng vấn ngày hôm nạy

DIỄN BIẾN

Rạng sáng 17/02/1979, Trung Quốc phát lệnh tấn công Việt Nam. 600 ngàn quân TQ đã dàn trải trên 1,000 Km biên giới. Ban đầu TQ dùng chiến thuật thí quân “biển lửa-biển người” nên tiến sâu hơn 10 Km như vào chốn không người. Sau đó vì địa hình hiểm trở và tiếp vận kém (dùng lừa vận chuyển) nên TQ khó triển khai cấp sư đoàn. Trong khi đó, trong 10 ngày đầu do chưa chuyển quân kịp nên VN chỉ sử dụng lực lượng tự vệ địa phương và vài sư đoàn chủ lực. Tổng cộng khoảng 70,000 người để chống trả 600 ngàn quân TQ. Với lực lượng tinh nhuệ, hệ thống phòng thủ lợi hại tại các hang động ở các điểm cao nên VN tạo được thế trận cân bằng.

Ngày 27/02/1979 TQ tập trung đánh Lạng Sơn, chiến sự khốc liệt, để rồi chiều ngày 04/03 TQ tiến vào Lạng Sơn, chỉ còn cách Hà Nội 155 Km.

Ngày 03/03/1979 Quân Đoàn I tinh nhuệ đến Lạng Sơn sau nhiều ngày di chuyển từ Campuchia bằng máy bay vận tải hạng nặng AN-12 do Liên Xô kịp đem đến. Các lực lượng không quân hùng hậu với pháo binh được Liên Xô khẩn cấp viện trợ cũng được điều tới Lạng Sơn. QĐ II, ngay sau đó, được lệnh cấp tốc chuyển lên Lạng Sơn từ chiến trường Campuchia để dành ưu thế trên chiến trường. Rõ ràng, VN quyết ghi vào lịch sử thêm một lần đánh bại quân TQ xâm lược. Không khí Lạng Sơn nặng nề báo trước một trận chiến khốc liệt.Tuy nhiên, vào ngày 05/03/1979 Bắc Kinh bất ngờ tuyên bố chiến thắng, hoàn thành mục tiêu chiến tranh và… rút quân! Ngày 07/03 VN tuyên bố cho phép TQ rút quân. Trên đường rút quân, TQ đã tàn phá tất cả những gì chúng gặp và tệ hơn gây ra thảm sát thường dân tại Đổng Chúc- Cao Bằng.Ngày 16/03/1979 TQ tuyên bố hoàn thành việc rút quân.

AI LÀ BÊN THẮNG TRẬN?

Sau khi TQ rút quân, cả hai phía đều tuyên bố thắng trận. Khi hai bậc thầy về bưng bít thông tin đánh nhau thì thế giới khó có được con số thật về thương vong và tử vong. Theo số liệu của các nhà sử học quốc tế thì: tỷ lệ thương vong/tử vong phía TQ là 60 ngàn/25 ngàn, tiêu tốn 1.3 tỷ USD, trong khi đó, tỷ lệ phía VN là 20 ngàn/10 ngàn.

Ngày 16/03/1979, tại hội nghị Quân Chính, Đặng Tiểu Bình chỉ trích tướng lãnh TQ: “Đánh lần này vũ khí, quân số đều gấp nhiều lần Việt Nam. Ở Cao Bằng gấp 5-6 lần. Ở Lạng Sơn, Lào Cai gấp 6-7 lần” nhưng “…thương vong của chúng ta gấp 4 lần so với Việt Nam. Uy tín của chúng ta đã bị hủy diệt”.

NGUYÊN NHÂN CUỘC CHIẾN

Việc các quốc gia CS gồm Việt Nam, Campuchia, Trung Quốc đánh nhau, cho thấy ý thức hệ Quốc Tế Cộng Sản chỉ là vỏ bọc để nước lớn thôn tính nước nhỏ. Theo ký giả Nayan Chanda và giáo sư Lê Xuân Khoa, có 3 nguyên nhân quan trọng dẫn đến cuộc chiến Việt-Trung:

1. Chủ quyền Hoàng Sa & Trường Sa:

Ngày 14/09/1958, VNCS đã bị mắc bẫy TQ dẫn đến việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm nhìn nhận chủ quyền TQ trên quần đảo Trường Sa. Đây là một cơ sở pháp lý quan trọng để TQ nuôi mộng thôn tính cả biển Đông sau này.

Năm 1972, Nixon đã bán đứng đồng minh VNCH trong chuyến viếng thăm Bắc kinh để rồi ngày 18/01/1974 TQ đánh chiếm Hoàng Sa dưới sự làm ngơ của Đệ Thất Hạm Đội của Mỹ gần đó. Do mắc nợ nên cả VNCS và VNCH đều không dám lên án những đồng minh bất lương của mình được!

Ngày 05/04/1975 Hải Quân Bắc Việt, nhanh tay hơn TQ, đã chiếm Trường Sa từ VNCH và ngày 07/05/1975 công bố bản đồ VN có cả Trường Sa và Hoàng Sa trên báo SGGP. Đây là một bước đi cứng rắn của Hà Nội sau khi bị mắc bẫy nói trên.

Đối với TQ, việc chiếm Trường Sa, VN đã vi phạm công hàm 1958. Đây được xem là một nguyên nhân quan trọng của chiến tranh 1979.

2. Vấn đề Hoa Kiều Chợ Lớn:

Sau khi chiếm Sài Gòn một tháng, Hà Nội đã ép Hoa Kiều Chợ Lớn nhập quốc tịch để đối lấy phiếu lương thực. Ngày 24/03/1978, Hà Nội cho bao vây Chợ Lớn, kiểm kê kể cả từng hiệu buôn nhỏ. Trong đợt càn quét này, Hà Nội đã tịch thu khoảng 8 tấn vàng và quốc hữu hóa 30,000 cơ sở sản xuất và thương mại. Chưa dừng lại ở đó, ngày 03/05/1978, Hà Nội cho đổi tiền, tối đa cho mỗi gia đình là 200 Đồng. Chỉ phút chốc, tiền VNCH mà Hoa Kiều đang giữ trở thành rác và họ bị phá sản!

Bắc Kinh nổi giận, lập tức ngưng viện trợ 72 dự án đang hoạt động tại VN, kêu gọi người Hoa trong cả nước hồi hương, thậm chí TQ đòi đem tàu vào tận Cảng Sài Gòn đón. Ít lâu sau, hơn 250 ngàn người đã trở về TQ, một số khác đi theo dạng thuyền nhân do chính quyền VN tổ chức lén lút có thu vàng, một số ít khác đi kinh tế mới.

3. Việt Nam đánh Campuchia:

Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh Việt-Trung 1979. Theo các nhà lãnh đạo Bắc Kinh lúc bấy giờ, việc đánh Campuchia đặt TQ vào thế mất an toàn biên giới mà lần đầu kể từ năm 1949 họ mới gặp phải: phía Bắc có “đại bá quyền” Liên Xô và phía Nam có “tiểu bá quyền” Việt Nam với âm mưu lập liên bang Đông Dương. Những cuộc tiếp xúc sau đó giữa VN và TQ như đổ dầu vào chảo lửa, làm cho quyết tâm của TQ đánh VN không thể dừng lại được nữa:

Ngày 07/06/1979, tướng Võ Nguyên Giáp cùng một đoàn quân sự-ngoại giao ghé Bắc Kinh sau chuyến thăm Mat-xcơ-va. TQ không đón tại sân bay, không có tiệc chiêu đãi và chỉ cho các quan chức hạng II tiếp. Tướng Giáp trả đũa bằng cách nói với chủ nhà rằng VN đang cầm tù các cố vấn TQ vào tháng 5/1979 khi tấn công vào Campuchia. Sau đó, báo Nhân Dân đăng bài tướng Giáp thăm TQ và chèn thêm hình ảnh lịch sử VN với 1000 năm chống TQ. Một ngày sau, Phạm Văn Đồng ghé Bắc Kinh, Lý Tiên Niệm trao cho ông Đồng một kháng thư lên án việc VN tấn công Trường Sa 1975, VN đàn áp người Hoa Chợ Lớn. Hai bên đã lớn tiếng với nhau.

VIỆT NAM THỜI HẬU CHIẾN 1979

Sau khi tuyên bố rút quân 16/03/1979, TQ vẫn còn chiếm đóng trên 60 Km2. Chiến tranh biên giới vẫn còn tiếp diễn 10 năm sau đó với ít nhất 6 trận đánh cấp sư đoàn, gây tổn thất không kém cuộc chiến năm 1979. Chiến tranh Việt-Trung chỉ thực sự chấm dứt khi các quốc gia CS ở Đông Âu sụp đổ vào năm 1989. Thật vậy, nhận thấy nguy cơ lan đến VN, một đoàn lãnh đạo VN cao nhất sang Trung Quốc cầu hòa, chấp nhận các điều kiện tiên quyết khắc nghiệt được ghi rõ trong Mật Ước Thành Đô ký năm 1990.

Từ đây, VN đã tự mình phá hỏng cơ hội thoát Trung và đặt mình vào thế yếu trong quan hệ vơi TQ! Một chương lịch sử đen tối mở ra cho nước Việt!

Trong hai năm liên tiếp 1999, 2000, VN đã ký 2 hiệp định theo đó VN nhường cho TQ Ải Nam Quan và nửa thác Bản Giốc. Nhục nhã hơn VN bị TQ đối xử như một kẻ bại trận khi lần lượt dâng tiếp Bauxite Tân Rai, Formosa và Đặc Khu Kinh Tế 99 năm đang dần hình thành … Vào ngày 01/05/2014, VN chịu nhục khi bất lực nhìn TQ cắm giàn khoan 981 trong hải phận của mình. Khom lưng mời kẻ xâm lược Tập Cận Bình đến giáo huấn các đại biểu Quốc Hội bù nhìn của Việt Nam. Chưa hết, vào tháng 03/2018 do áp lực của TQ, VN phải rút giàn khoan chuẩn bị khai thác, hòan toàn nằm trong thềm luc địa của Việt Nam; buộc VN phải chịu đền bù cho nhà thầu Repsol 2 tỷ USD…

Nhìn lại chặng đường dài trong quan hệ hai nước, chỉ có lãnh đạo thời Lê Duẫn mới dám đương đầu cứng rắn với TQ. Còn lại, tất cả đều tỏ ra bạc nhược trước kẻ thù. Họ đang đặt tổ quốc vào tình thế nguy ngập.

Trong lịch sử chiến tranh giữa hai nước, chưa bao giờ Trung Quốc có cơ hội lớn để thôn tính Việt Nam như vậy!



TBT Lê Duẩn: về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam

Đôi lời: Để hiểu thêm thực chất mối quan hệ Việt-Trung trong mấy chục năm nay, không còn chút mơ hồ nào nữa, đặc biệt trước rất nhiều hành động gây hấn trắng trợn của 

Trung Quốc trong thời gian gần đây, xin giới thiệu một tư liệu cá nhân nho nhỏ của cố TBT Lê Duẩn khi sinh thời, và một bản dịch từ tư liệu nước ngoài, bài phát biểu của ông về “tập đoàn phản động Trung Quốc”, cùng với đoạn trích Hiến pháp 1980 liên quan tới Trung Quốc.

1) Đây là bản chụp vài dòng bút ký cá nhân, như tự dặn với riêng mình, của cố Tổng bí thư BCHTW ĐCSVN Lê Duẩn năm 1978, một năm trước khi Trung Quốc đưa quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc VN, được lưu trữ trong kho tư liệu riêng của gia đình ông. Đoạn này đề cập tới quan hệ với Trung Quốc.

Ông viết: “Phải xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có hạnh phúc cho nhân dân phải giàu mạnh và hùng cường. Đó là vì vị trí lịch sử và địa dư của Việt Nam. Không thể khác được. Vì chúng ta ở bên cạnh một nước mà lịch sử của nước đó chưa ra khỏi cuộc sống người ăn thịt người”.

Không nghi ngờ gì nữa, đó là ám chỉ tới người láng giềng Trung Quốc, đất nước với lịch sử từng có tập tục “người ăn thịt người” mà chính Văn hào Lỗ  Tấn đã đề cập tới nhiều lần trong tiểu thuyết Nhật ký người điên. (Mời xem thêm: Ăn thịt đồng loại – Wikipedia). Đương nhiên, qua nội dung này và bài phát biểu của ông, cũng như Lời nói đầu trong bản Hiến pháp 1980, sự đánh giá đó không phải với tuyệt đại bộ phận người dân Trung Quốc.

Cũng không có gì khác biệt trong tinh thần của nội dung trên với quan điểm cứng rắn của vị lãnh đạo cao nhất trong Đảng CSVN trong suốt một thời gian dài đối với nhà cầm quyền Trung Quốc.

Như bao nhiêu bậc quân vương khác, không thể tránh được những mặt yếu, mạnh, hay, dở trong lúc trị vì, nhưng riêng cách nhìn và thái độ đối với người láng giềng phương Bắc, cố TBT Lê  Duẩn là vị lãnh đạo kiên quyết và rõ ràng nhất, như bao nhiêu thế hệ ông cha đã từng răn dạy.

2)  HIẾN PHÁP  NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1980, Lời nói đầu (Trích): “Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hoà bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Cam- pu-chia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.”

3Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam:

(Trích): “Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”

Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!

Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.

Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.

Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!

Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!

 Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?

Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.”

CWIHP

Bài phát biểu của Lê Duẩn năm 1979

Người dịch: Ngọc Thu 

Mô tả: Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam.

 Nguồn: Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Tài liệu do Christopher Goscha có được và dịch cho CWIHP.

Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ, không đế quốc nào dám đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ phản động Trung Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại, thì họ sẽ tấn công chúng ta như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).

Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc, thì  các tỉnh [Bắc Trung Bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất nước. Các tỉnh này tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất. Vì nếu vùng đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, thì tình hình sẽ rất phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là người Việt Nam, thì sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, cả thế giới còn lại đều sợ Mỹ …

Mặc dù Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên chỉ với mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ. Sau khi cuộc chiến kết thúc [ở Triều Tiên] và khi áp lực lên Việt Nam, ông ta (chỗ này hình như nói đến Chu Ân Lai khi đoạn văn sau đó cho thấy vậy) nói rằng, nếu Việt Nam tiếp tục chiến đấu, thì sẽ phải tự lo liệu. Ông ta sẽ không giúp thêm nữa và gây áp lực với chúng ta để ngừng chiến đấu.

Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva, rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất nước ta làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Nam – Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức ép lên chúng ta, không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn]. [Nhưng] họ, [người Trung Quốc,] không thể làm gì để ngăn cản chúng ta.

Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Geneva, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một tình huống rất nguy hiểm [theo cái nhìn của Trung Quốc]! Ngay lập tức, Việt Nam đã phải làm việc với người Mỹ [liên quan đến vấn đề này]. Mao đã bức hiếp chúng ta bằng cách này và chúng ta đã phải làm điều đó.
Sau đó, khi hai tỉnh này đã được chuyển cho Viêng Chăn, những tên phản động [Lào]  ngay lập tức bắt giữ Souphanouvong (Chủ tịch Lào từ năm 1975-1986). Lào có hai tiểu đoàn bị bao vây lúc đó. Hơn nữa, họ vẫn chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó, một tiểu đoàn đã có thể thoát khỏi sự [bao vây]. Lúc đó, tôi đưa ra quan điểm của tôi là, Lào phải được phép tiến hành chiến tranh du kích. Tôi mời Trung Quốc đến và thảo luận về vấn đề này với chúng ta. Tôi nói với họ: “Các đồng chí, nếu các đồng chí tiếp tục gây áp lực với Lào bằng cách này, thì lực lượng của họ sẽ hoàn toàn tan rã. Bây giờ họ phải được phép tiến hành chiến tranh du kích“.

Trương Văn Thiên (Zhang Wentian), người trước đó là Tổng Thư ký [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và sử dụng bút danh Lạc Phú, trả lời tôi: “Vâng, các đồng chí, điều các đồng chí nói đúng. Hãy để chúng tôi cho phép tiểu đoàn đó của Lào đảm nhiệm chiến tranh du kích“.

Ngay lập tức, tôi hỏi Trương Văn Thiên: “Các đồng chí, nếu các đồng chí cho phép Lào gánh vác chiến tranh du kích, thì không có gì phải sợ việc phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì làm cho các đồng chí sợ đến nỗi các đồng chí ngăn cản hành động như thế?”

Ông ta [Trương Văn Thiên] đã nói: “Không có gì phải sợ!”

Trương Văn Thiên đã nói thế. Tuy nhiên, Ho Wei, Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam lúc đó, đã ngồi ở đó và nghe điều đã nói. Ngay lập tức, ông ta điện cho Trung Quốc (báo cáo điều Lê Duẩn và Trương Văn Thiên đã nói). Ngay lập tức, Mao trả lời: “Việt Nam không thể phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Việt Nam phải nằm chờ trong một thời gian dài!” Chúng ta rất nghèo. Làm sao chúng ta có thể đánh Mỹ nếu không có Trung Quốc làm căn cứ hậu tập? Nên chúng ta phải nghe theo họ, đúng không?

Tuy nhiên, chúng ta đã không đồng ý. Chúng ta đã bí mật tiếp tục phát triển lực lượng. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam, chúng ta đã ban hành lệnh thành lập lực lượng quần chúng để chống lại lệnh đã được lập và nắm quyền [từ chính phủ Diệm]. Chúng ta đã không chú ý [đến Trung Quốc].

Khi cuộc nổi dậy giành chính quyền bắt đầu, chúng tôi đi Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình đã nói với tôi: “Đồng chí, bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống“. Đó là áp lực mà họ đã áp đặt lên chúng ta.

Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! tôi sẽ làm điều đó. Tôi sẽ chỉ chiến đấu ở mức một trung đội trở xuống“.

Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á. Không có lý do nào khác.

Chúng tôi biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự xâm nhập của quân đội Trung Quốc). Thôi thì cũng được. Nhưng họ quyết định đưa quân vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.
Sau đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ tiếng Việt chỉ miền Nam Việt Nam). Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.

Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.

– Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm quân.
Đến lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đã viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ“. Ông ta gây áp lực với chúng tôi cách này, làm cho chúng tôi bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề hoàn toàn đơn giản. Rất là mệt mỏi mỗi khi tình huống như thế phát sinh [với Trung Quốc].

Chúng tôi quyết định không thực hiện cách đó (nói đến lời khuyên của Hồ Wei không đàm phán với Hoa Kỳ). Chúng tôi phải ngồi xuống ở Paris. Chúng tôi phải làm cho họ (Mỹ) giảm leo thang để đánh bại họ. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã thông báo [với Mỹ]: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông. Nhưng rất nhiều quân lính mà các ông muốn đưa vào Việt Nam, tùy các ông“. Trung Quốc nhất trí điều này và đã gây áp lực với chúng tôi bằng cách đó.

Họ (Trung Quốc) đã trao đổi nhiều với Mỹ và ép buộc chúng ta phục vụ như là một con bài để mặc cả theo cách này. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua trận, ngay lập tức, họ sử dụng Trung Quốc để [tạo điều kiện] rút quân [ở miền Nam Việt Nam]. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận vấn đề này.

– Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta là] giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm bớt thất bại của Mỹ, cũng như cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: “Lúc này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận về vấn đề Việt Nam, do vậy tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí“.

Tôi trả lời: “Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích, nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt. Việt Nam là của tôi (đất nước của tôi), hoàn toàn không phải của các đồng chí. Các đồng chí không có quyền nói [về vấn đề Việt Nam] và các đồng chí không có quyền thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ]. Hôm nay, các đồng chí, chính tôi sẽ nói với các đồng chí điều mà thậm chí tôi chưa hề nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí đã nêu ra vấn đề nghiêm trọng và vì thế tôi phải nói:

– Năm 1954, khi chúng tôi giành chiến thắng tại Điện Biên Phủ, tôi đã ở [tỉnh] Hậu Nghĩa. Bác Hồ đã điện nói với tôi rằng, tôi phải vào miền Nam để tập hợp [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về vấn đề này]. Tôi đi bằng xe tải vào miền Nam. Trên đường đi, đồng bào ra chào đón tôi vì họ nghĩ rằng chúng tôi đã giành chiến thắng. Đau đớn vô cùng! Nhìn đồng bào miền Nam, tôi đã khóc. Vì sau đó, Hoa Kỳ sẽ đến và tàn sát [người dân] một cách khủng khiếp.

Khi vừa tới miền Nam, ngay lập tức, tôi đã điện cho Bác Hồ để xin ở lại [miền Nam] và không trở lại miền Bắc để tôi có thể đánh thêm mười năm nữa hoặc hơn. Đồng chí đã gây khó khăn cho tôi như thế này (muốn nói đến vai trò của Chu Ân Lai trong việc chia cắt Việt Nam tại Geneva năm 1954), đồng chí có biết không“?

Chu Ân Lai nói: “Tôi xin lỗi đồng chí. Tôi đã sai. Điều đó tôi sai” (muốn nói đến sự chia cắt Việt Nam tại Geneva). Sau khi Nixon rời khỏi Trung Quốc, một lần nữa, ông ta (Chu Ân Lai) đến Việt Nam để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay lập tức, tôi nói với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí rồi. Chẳng bao lâu nữa, họ (Hoa Kỳ) sẽ tấn công chúng tôi thậm chí còn mạnh hơn“.

Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai (Mỹ và Trung Quốc) đã thương lượng với nhau để đánh tôi mạnh hơn. Ông ta (Chu Ân Lai) đã không bác bỏ quan điểm này là vô căn cứ và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng đạn cho các đồng chí“.

Sau đó ông ta (Chu Ân Lai) nói (về mối lo ngại âm mưu bí mật Trung – Mỹ): “Không có điều đó“. Tuy nhiên, hai bên đã thảo luận làm thế nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Rõ ràng là như thế.
– Nếu Liên Xô và Trung Quốc đã không mâu thuẫn với nhau, thì Hoa Kỳ không thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đã tấn công. Khi hai [cường quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đã không bị [phe đối lập là khối xã hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và đoàn kết với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức tạp, lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm Trung Quốc cung cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đô la. Liên Xô cũng đã giúp bằng cách này. Nếu chúng ta không thể làm điều đó (đoàn kết và thống nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ rất nguy hiểm.

Mỗi năm tôi đã phải đi Trung Quốc hai lần để nói chuyện với họ (lãnh đạo Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam Việt Nam. Về phía Liên Xô, tôi không phải nói gì cả (về tình hình ở miền Nam Việt Nam). Tôi chỉ nói một cách chung chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đã phải nói rằng cả hai [nước] đang đánh Mỹ. Tôi đã đi một mình. Tôi phải có mặt về vấn đề này. Tôi đã đến đó và nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục đích chính là để xây dựng quan hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam). Chính xác là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp lực với chúng ta để xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô.

Họ đã làm rất căng. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh đã đến và nói với tôi: “Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ [có lẽ là nhân dân tệ] mỗi năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô“.

Tôi không đồng ý điều này. Tôi nói: “Không, chúng ta phải đoàn kết và thống nhất với toàn bộ phe [xã hội chủ nghĩa]”.

Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc] ban hành một tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ý kiến . Anh Trường Chinh và tôi đã đi cùng với một số anh em khác. Trong cuộc thảo luận, họ (Trung Quốc) lắng nghe chúng tôi đến, hình như là điểm thứ 10, nhưng khi đến điểm “không từ bỏ phe xã hội chủ nghĩa”, họ đã không nghe… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về tài liệu của chính tôi, tôi muốn nghe ý kiến ​​của các đồng chí, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm này của các đồng chí“.

Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”

Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!

Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.

Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.

Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!

Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!

Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?

Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.

Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối đe dọa của Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều, không phải là chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tình hình gần đây sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.

Mười năm trước, tôi đã triệu tập các anh em trong quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu thuẫn với nhau. Đối với Trung Quốc, họ đã bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng này, các đồng chí phải nghiên cứu vấn đề này ngay lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không hiểu ý tôi, nên tôi nói với họ rằng, không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ vẫn thấy khó hiểu. Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không thể nói bằng cách nào khác. Và tôi đã không cho phép những kẻ khác túm lấy tôi.

Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [buổi họp này] không chỉ đơn giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam đã không đi.

Liên Xô nói: “Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế [hay] là cái gì? Tại sao các đồng chí làm điều này?” Tôi nói: “Tôi hoàn toàn không bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để là người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại Mỹ, thì phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến hội nghị này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng tôi. Các đồng chí, hãy hiểu cho tôi“.

Tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến và tranh luận ​​khác nhau. Chu Ân Lai đồng ý việc hình thành một mặt trận với Liên Xô để chống Mỹ. Một lần, khi tôi đi Liên Xô để dự lễ kỷ niệm quốc gia, tôi có đọc một bức điện Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói rằng: “Bất cứ khi nào có ai đó tấn công Liên Xô, thì Trung Quốc sẽ đứng bên cạnh các bạn“. Đó là vì đã có một hiệp ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc từ thời trước đó (tháng 2 năm 1950).

Ngồi cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta: “Trong bức điện gửi đến Liên Xô gần đây, đồng chí đồng ý thành lập một mặt trận với Liên Xô, nhưng tại sao các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai nói: “Chúng tôi có thể thành lập mặt trận chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan điểm đó. Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [Việt Nam]”. Bành Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Quan điểm này cực kỳ chính xác!” Nhưng khi vấn đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không thể và hủy bỏ nó. Các đồng chí thấy nó phức tạp như thế nào.

Mặc dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan điểm này, ông ta dù sao cũng đồng ý xây dựng một mặt trận và [ông ta] đã giúp Việt Nam rất nhiều. Cám ơn ông ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về những gì đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm. Có lần, ông ta nói với tôi: “Tôi đang làm hết sức mình để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ cho các đồng chí“. Thì ra vậy (tức là Chu Ân Lai đã sử dụng Li Chiang, để giúp người Việt Nam). Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai, điều này sẽ hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi đang mắc nợ ông ta.

Tuy nhiên, không đúng để nói rằng các lãnh đạo khác của Trung Quốc hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân Lai. Họ khác nhau nhiều thứ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất là người có tinh thần Đại Hán và là người muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch Đông. Tất cả các chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông ta.

Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà lãnh đạo hiện tại của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao, [sự thật của vấn đề là] họ đã tấn công chúng ta. Trong quá khứ, Đặng Tiểu Bình đã làm hai điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là, khi chúng ta giành chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, nhiều [lãnh đạo] Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên, dù sao Đặng Tiểu Bình cũng chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, ngay lập tức ông ta đã bị những người khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn và tôi đã gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng đầu. Khi nói về vấn đề lãnh thổ, gồm cả việc thảo luận về một số hòn đảo, tôi nói: “Hai đất nước chúng ta ở gần nhau, Có một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định rõ ràng. Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng chí, làm ơn đồng ý với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) đồng ý, nhưng sau khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lãnh đạo khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

Nhưng bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên rồi. Bởi vì ông ta muốn cho mọi người thấy rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại, cho nên ông ta đã tấn công Việt Nam mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.

Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: “Các đồng chí định đánh với ai mà giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy?” Tôi nói: “Sau này, các đồng chí sẽ hiểu“. Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là vì mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nếu không có [một mối đe dọa như thế], thì điều này (quân đội thường trực lớn) sẽ không cần. Gần đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta đã không được duy trì một đội quân lớn.

(B) (Ý nghĩa của chữ “B” này trong văn bản gốc không rõ ràng) – Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ. Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm các nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ.

Tôi hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy tôi. Người đầu tiên sợ [Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay lập tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử dụng điều đó làm lý do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng tôi đã nói: “Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam“. Ông ta (Mao) nói: “Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam Việt Nam phải nằm đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời hoặc thậm chí 20 đời kể từ bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ là nguy hiểm“. Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến mức độ đó…

Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiếp tục chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam Việt Nam sẽ không được giải phóng. Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất nước lệ thuộc. Không ai có được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do. Không có được độc lập cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc lập hoàn toàn. Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam …

Engels đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và chính chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước rất khác về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ vì các bạn có hàng triệu người, thì các bạn có thể làm bất cứ điều gì các bạn muốn. Trung Quốc cũng nói đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù tiến lên, thì chúng ta phải rút lui“. Nói cách khác, phòng thủ là chính, và chiến tranh được chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao vây thành thị, trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi… Người Trung Quốc ở thế phòng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu người đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại họ.

Tôi phải lặp lại điều này như thế, vì trước khi Trung Quốc gửi cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ nghĩ rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó chúng ta đã không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].

Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc vì tôi bị bệnh và cần điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đã bị] quân Nhật chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy một chiến binh du kích…

Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đã gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:

– Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?

Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.

– Chú đã thấy gì?

Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút nào.
Tôi hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn khác với họ. Lòng can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao giờ có một chiến lược phòng thủ. Mọi người dân chiến đấu.

Gần đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm ngàn quân vào xâm chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng dân quân và quân đội trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi bước. Họ không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đã xóa sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là vì chiến lược tấn công của chúng ta.

Đế quốc Mỹ đã đánh với chúng ta trong một cuộc chiến dài. Họ rất mạnh, nhưng họ đã thua. Nhưng có một yếu tố đặc biệt, đó là những mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì điều này], họ đã tấn công chúng ta mạnh như thế.

… Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã chiến đấu rất quyết liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích lũy hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào để đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã phải chiến đấu trong một thời gian dài để làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm được điều đó, Trung Quốc thì không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong Tre (Quảng Trị?), ngay lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.

Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai dám làm những điều các đồng chí đã làm“.

… Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi: “Nếu tôi biết trước cái cách mà các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý Trường chinh“.

Vạn lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc hành quân có 300.000 quân, đến cuối Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000 quân. 270.000 người đã chết. Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí biết chúng ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng ta chiến đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng … Tuy nhiên, sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống lại Trung Quốc, không rõ họ có giành được chiến thắng như thế này không (như Việt Nam).

… Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.

Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột với nhau, Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông đã nói với Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, thì tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà các ông muốn. Tùy các ông“.

… Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất mạnh, một nước với ý đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu với một cuộc xâm lược Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai trò lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ của mình, và lần này Việt Nam xác định không cho phép họ bành trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng mình và làm như vậy cũng là để bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để Trung Quốc thực hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung Quốc] chỉ là vòng một. Hiện họ vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng …

Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả trong rừng. Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài liên quan đến vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 – 600.000 binh lính để đánh chúng ta, nhưng họ đã không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương thực cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng họ phải để lại một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.

Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta biết cách đánh. Nếu họ đưa 1 triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.

Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn công quyết liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến Leningrad, họ không thể vào được. Với thành phố, người dân và các công trình phòng thủ, không thể nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi người. Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) thì giống như thế. Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.

Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền tuyến. Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây kết thúc, chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu phương trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh … Hậu phương trực tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách … Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để giánh một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải là một người lính thực và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.

– Bây giờ đã đánh xong một trận rồi, chúng ta không nên chủ quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai. Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng chúng ta cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần phải có cả hai điều này.

– Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam“! Thời đại hiện nay không giống như thời xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói Trung Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn độc lập, tự do.

Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với thời xưa. Thời đó, người dân chưa nhận thức rõ những điều này. Do đó, câu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý tưởng của thời đại hiện nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do … Việt Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.

– Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong Bộ Chính trị đã thảo luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đã đồng ý đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ý. Chúng ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu chúng ta không sợ ba điều này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đã thực hiện trong Bộ Chính trị hồi đó.

Mặc dù Bộ Chính trị đã gặp và tổ chức các buổi thảo luận như thế và mọi người đồng lòng, sau này có một người đã nói với một đồng chí điều mà tôi đã nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ Chính trị, hỏi lý do gì mà Anh Ba một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta muốn đánh Mỹ, thì chúng ta không nên sợ Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải nói như vậy nữa?

Lúc đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đã bị nghi là có cảm tình với Trung Quốc, đứng lên và nói: “Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa Bác Hồ, lời phát biểu của anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ý nói không cần phải sợ Trung Quốc), vì họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ chặn chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không cho chúng ta đánh…

Trong khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt Nam, Đặng Tiểu Bình quy định rằng tôi chỉ có thể đánh ở mức trung đội trở xuống và không được đánh ở mức cao hơn. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) nói: “Ở miền Nam, do các ông phạm sai lầm về việc đã khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống, không được đánh ở mức cao hơn“. Họ gây áp lực lên chúng ta như thế.

– Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta cũng không sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng ta. Chúng ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.

Chúng ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi vì đất nước chúng ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được. Nếu không, thì sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.

– Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách nào làm nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng ta: xâm lược và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và làm cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn. Vì những lý do này, để chống lại Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà còn làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta không nên là một lực lượng lãng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực lượng sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập tức. Khi không có kẻ thù, thì họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác. Dĩ nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới …

– Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh vác một nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng lúc bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản động Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều này. Việt Nam có 50 triệu người rồi. Việt Nam có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có phe [XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta. Rõ ràng là chúng ta có thể làm điều này.

… Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta, trong nhân dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả. Nhưng chúng ta phải duy trì các mối quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta.

Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế giới này, người đã bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại Trung Quốc, nhưng chỉ có mình tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng ta biết rằng người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không cảm thấy xấu hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lãnh đạo (Trung Quốc) là một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói bè lũ phản động Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần nữa một cách nghiêm túc như thế.

Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối quan hệ với Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong 100 năm, chủ nghĩa xã hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.

Hiện nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ nữa. Nhưng cách đây năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc có thể đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng chí [này] không có kiến ​​thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã và đang tấn công chúng ta [cách nay] mười năm hoặc hơn. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên [về cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979]



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 
Nữ quản lý gốc Việt chết thảm trong kho lạnh ở Mỹ
Thế Giới Hồi Giáo Xưa và Nay
Tội ác man rợ của người Thái hải tặc đồi với dân tị nạn VN
Nhiều thiếu nữ Nga và Ukraine xinh đến ngỡ ngàng muốn tìm người yêu và chồng VN
Bắt chước đầu bếp Anh làm Thánh Rắc Hành đi tù gần 6 năm bị đảng và nhà nước cho là diểu cợt thái thú Tô Lâm người gốc Hoa lãnh đạo thực quyền tối cao do TQ bỗ nhiệm
Mỹ đạt thỏa thuận tránh vỡ nợ, thị trường chứng khoán tăng vọt người Việt hãy mua các cổ phiếu tốt nhất kẻo mất cơ hội
Chiến dịch phản công của Ukraine đã bắt đầu, quân Nga tháo chạy, quân đoàn giải phóng đánh vào nội địa Nga
Mặt trận giải phóng Nga Sô lập chiến công rực rỡ
Đảng và nhà nước khuyến khích lai giống để cải thiện chiều cao nỏi giống
Tổng giám đốc IMF: Việt Nam sẽ tăng trưởng gấp đôi kinh tế toàn cầu
Nghe đảng đi thâm đất tổ TQ, 9 người Việt tử vong do tài xế TQ lái
Việt Nam biết bao nhiêu thế kỷ nữa mới được hưởng Dân Chủ để tự do bầu cử như Campuchia và Thái Lan?
VK Mỹ rút tiền trong khi cựu TT Trump hô hào các đại biểu đảng CH chống lại TT Biden cho nước Mỹ vỡ nợ lần đầu tiên trên thế giới để giúp Nga chiến thằng và TQ vượt Mỹ trả đủa dâm Mỹ không
Nga nói hai tư lệnh chiến trường quân đội thiệt mạng ở Ukraine, tàn quân dẫm đạp nhau vắt giò lên cổ chạy thoát thân
Ngư dân VN chống Tàu cứu nước muôn năm!

     Đọc nhiều nhất 
Nghi vần TT Nguyễn Văn Thiệu nộị gián cho CS làm sụp đổ miền Nam bằng lệnh rút quân tức tốc khiến CSBV đuổi theo không kịp! [Đã đọc: 526 lần]
Học đạo đức bác Hồ con giết cha thiêu xác phi tang - Người Việt trở nên bạo động, hung ác thời XHCN [Đã đọc: 313 lần]
Vì sao Mỹ và các đồng minh NATO vẫn còn khiếp sợ Nga không dám gửi chiến đấu cơ tối tân hơn cho Ukraine [Đã đọc: 294 lần]
Trung Quốc+VC đầu độc nhân dân Việt Nam [Đã đọc: 292 lần]
Thảm cảnh người gốc Việt vô gia cư tại Mỹ [Đã đọc: 291 lần]
Nga mượn tay Việt Nam đàn áp kiều dân Nga tại VN phản đối chiến tranh ở Ukraine [Đã đọc: 258 lần]
Việt Nam phát triển kỹ nghệ quồc phòng đối phó TQ [Đã đọc: 238 lần]
Không sợ hiểm nguyTổng thống Zelensky thăm thành phố Avdiivka giữa lúc quân đội Nga bao vây 3 phía- Cảnh báo Nga sắp dùng bom hạt nhân giết hàng trỉiệu người Ukraine [Đã đọc: 221 lần]
30-4-75: GIẢI PHÓNG” NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM. [Đã đọc: 219 lần]
Nữ sinh lớp 10 treo cổ tự tử: Nạn nhân nói với mẹ 'con sợ đến trường' [Đã đọc: 216 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.