Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 7
 Lượt truy cập: 24839491

 
Tin tức - Sự kiện 18.04.2024 23:21
Tên DT tội đồ lừa bịp bán đứng VNCH cho CS, giao Hoàng Sa làm quà bang giao với Trung Cộng để đưa nó thành địch thủ của Hoa Kỳ gây nguy hiểm cho nhân loại ngày nay
12.05.2023 11:28

Stephen B. Young: 'Sự phản bội của Henry Kissinger là nguyên nhân chính khiến Việt Nam Cộng hòa sụp đổ'

Henry Kissinger và Stephen B. Young

Chụp lại hình ảnh,

Tác giả Stephen B. Young (trái) và bìa sách 'Kissinger's Betrayal: How America Lost the Vietnam War' vừa được ấn bản

  • Tác giả,Huyền Trân
  • Vai trò,BBC News Tiếng Việt

Dường như Henry Kissinger đã làm theo câu nói nổi tiếng của sử gia Thucydides, "The strong do what they can, the weak suffer what they must", tác giả Stephen B. Young bình luận với BBC News Tiếng Việt.

'Kissinger's Betrayal: How America Lost the Vietnam War' là quyển sách mới nhất của tác giả Stephen B. Young cho thấy cách nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ, Henry Kissinger đã phản bội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) thế nào qua những thỏa thuận bí mật với Liên Xô, Bắc Việt và Trung Quốc.

Ông Henry Kissinger, 99 tuổi là Ngoại trưởng Mỹ từ năm 1973 đến 1977, và trợ lý cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon, sau đó là Tổng thống Gerald Ford trong các vấn đề an ninh quốc gia từ năm 1969 đến tháng 11/1975.

Quyển sách đề cập đến động cơ sâu xa Henry Kissinger, từ sự không tin tưởng vào một chiến thắng cho Mỹ ở Việt Nam ngay từ ban đầu, không xem Việt Nam Cộng hòa có chủ nghĩa dân tộc.

BBC: Ông có thể nói về quá trình viết sách 'Kissinger's Betrayal: How America Lost the Vietnam War'? Có thể nói đây là quyển sách đầu tiên về sự phản bội của Henry Kissinger đối với Việt Nam Cộng hòa?

Giáo sư Stephen B. Young: Đúng như vậy. Mọi chuyện xảy đến với tôi theo một cách tình cờ.

Tôi đã tìm kiếm tài liệu viết quyển sách này trong hơn 40 năm qua. Nhiều câu chuyện, mà tôi có thể nói theo Tiếng Việt, phải gọi là "phước của Trời".

Tôi có quen biết cựu Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker trong quãng thời gian tôi làm việc tại đó. Bunker về hưu năm 1980, và ông ấy mời tôi cùng gia đình đến thăm quê ông ấy ở Vermont.

Khi đó, Bunker đã kể rất nhiều câu chuyện thú vị về Việt Nam như về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu... Khi đó tôi đặt câu hỏi cho ông ấy "Ngài Đại sứ, tôi muốn viết sách, người dân Mỹ cần phải biết những câu chuyện này. Đây là những câu chuyện hay, rất thú vị mà lại không ai biết về chúng." Và rồi ông ấy đồng ý.

Lá thư Henry Kissinger gửi cho Ellsworth Bunker vào ngày 25/05/1971

NGUỒN HÌNH ẢNH,STEPHEN B. YOUNG

Chụp lại hình ảnh,

Lá thư Henry Kissinger gửi cho Ellsworth Bunker vào ngày 25/05/1971 (phải), có đoạn "On your point VI we will say that peoples of Indochina should discuss this question among themselves but we not set date." Và một biên bản từ Nhà Trắng vào ngày 25/05/1971, Sainteny và vợ ăn trưa với Henry Kissinger, và Sainteny truyền đi thông điệp từ Hà Nội (trái)

Khi cùng làm việc với nhau, tôi đã có điều kiện tiếp cận với những tài liệu mật của Bunker ở Bộ Ngoại giao Mỹ. Khi nhìn vào một tủ hồ sơ, tôi phát hiện những lá thư mật giữa Ellsworth Bunker và Henry Kissinger.

Và tôi thấy thông điệp rất sốc của Kissinger vào ngày 25/05/1971, mang nội dung nói một cách gián tiếp [indirectly] với Bunker rằng Mỹ sẽ để Hà Nội duy trì hiện diện quân sự ở miền Nam Việt Nam sau hiệp định hòa bình Paris. Nói một cách khác, Kissinger sẽ bỏ rơi những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc. Nhưng tôi chỉ có một tài liệu đó.

Vào năm 1971, Đại sứ Bunker không hiểu những gì Kissinger nói, ông ấy vẫn còn nghĩ rằng Kissinger vẫn còn ủng hộ người theo chủ nghĩa dân tộc ở Sài Gòn và do đó, Bunker đã không làm gì.

Và khi tôi đưa bức thư đó cho Bunker xem thì ông ấy rất thất vọng vì nghĩ rằng lẽ ra mình đã phải nhận ra ngay vấn đề vào thời điểm đó.

Chính câu chuyện này đã cho tôi một chỉ dấu cho thấy Kissinger đã có một kế hoạch cá nhân cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Và tôi đã dành rất nhiều năm để xem thêm tài liệu khác để viết nên quyển sách này.

Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Ông Ellsworth Bunker là Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa nhiệm kỳ 1967-1973

Tôi cũng tiếp cận Tổng thống Nixon. Kết bạn với Nixon vốn là chuyện không dễ dàng vì tôi phải mất đến 4 đến 5 năm. Lần đầu tôi gặp Nixon là vào khoảng năm 1981. Vào khoảng năm 1989, khi nghĩ ông ấy đã tin tưởng mình, tôi hỏi ông ấy ở New Jersey, "Có phải ông đã ủy quyền cho Henry Kissinger bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa hay không?", và khi đó ông ấy bị sốc, mặt trắng bệch, ông ấy nói không nên lời. Ông ấy nói mình không biết Kissinger thật sự làm gì vào năm 1971.

Một yếu tố khác là từ quyển sách "Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ - Kissinger Tại Paris" của tác giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, những nhà ngoại giao cùng với ông Lê Đức Thọ trong quá trình đàm phán Hiệp định Paris. Trong quyển sách đó, hai tác giả viết rằng vào cuối tháng Giêng năm 1971, Đại sứ Liên Xô tại Hà Nội có cuộc họp với Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Khi đó Đại sứ Liên Xô cho biết Kissinger vừa mới nói với Đại sứ Liên Xô tại Washington, Anatoly Dobrynin là nước Mỹ sẽ rời khỏi Việt Nam và không bao giờ trở lại, Mỹ sẽ không yêu cầu Hà Nội rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Câu chuyện này trùng khớp với tài liệu mà tôi có được từ tập hồ sơ mật của Bunker.

Rồi sau đó tôi nhớ lại trong quyển tự truyện của Kissinger, ông ấy nêu vào ngày 09/01/1971 đã có cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô, Dobrynin ở Washington, và chấm hết.

Đó là tất cả những gì Kissinger viết. Như vậy chúng ta có thể thấy, chi tiết gặp Đại sứ Liên Xô tại Washington từ hai tác giả Việt Nam và tự truyện của Kissinger có sự liên quan với nhau.

Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin tại Nhà Trắng vào ngày 26/12/1973

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin tại Nhà Trắng vào ngày 26/12/1973

Cách đây hai năm, tôi hỏi một người bạn của tôi ở Moscow, một giáo sư người Nga chuyên về lịch sử Liên Xô gửi cho tôi chi tiết về thông điệp mà Đại sứ Dobrynin gửi cho Moscow về cuộc gặp giữa ông ấy với Kissinger hay không nhưng ông ấy không giúp được.

Nhưng một người bạn khác của tôi từ Đại học Harvard, chuyên nghiên cứu về lịch sử Liên Xô và Nga thì cho biết biên bản cuộc họp ngày 09/01/1971 đó đã được dịch sang Tiếng Anh và giúp tôi có được bản sao biên bản đó, dài khoảng sáu trang, năm trang về chạy đua vũ trang, vũ khí hạt nhân... trang thứ sáu là về Việt Nam.

Và trong biên bản này thì Kissinger đã đề xuất Hà Nội có thể để binh sĩ ở lại miền Nam Việt Nam, lính Mỹ có thể về nhà, chuyện gì xảy ra thì cứ để xảy ra.

Một câu chuyện thứ ba là khi tôi xem tài liệu tại thư Viện Gerald R. Ford ở Michigan, người thủ thư mang cho tôi hai hộp hồ sơ và nói 'Steve à, tôi nghĩ ông nên xem chúng".

Và tập hồ sơ có tên là 'Mr. S file' và tôi thấy thật thú vị. Khi đó tôi thấy một cái tên Pháp, Jean Sainteny, một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam vì là người chọn Hồ Chí Minh vào tháng 03/1946. Và tôi ngỡ ngàng khi đây là hồ sơ về những cuộc trao đổi giữa Henry Kissinger là Jean Sainteny.

Và tôi thấy một biên bản từ Nhà Trắng vào ngày 25/05/1971, Sainteny và vợ ăn trưa với Henry Kissinger, và Sainteny truyền đi thông điệp từ Hà Nội.

Sainteny nói với Kissinger rằng nếu Mỹ đem quân về nước, để Bắc Việt duy trì binh lính tại miền Nam Việt Nam, Hà Nội sẽ ký hiệp ước hòa bình, trao trả tù binh chiến tranh và để Việt Nam Cộng hòa sống thêm hai, ba năm nữa.

Cùng ngày này, 25/05/1971, Kissinger gửi thư đến Bunker, có thể là sau cuộc gặp với Jean Sainteny với nội dung không nói thẳng là Mỹ sẽ không yêu cầu Hà Nội rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.

Tổng thống Mỹ Richard Nixon (trái) trong cuộc gặp với Cố vấn An ninh Quốc gia, Henry Kissinger (phải) tại Nhà Trắng, vào ngày 16/09/1972

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Tổng thống Mỹ Richard Nixon (trái) trong cuộc gặp với Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger (phải) tại Nhà Trắng vào ngày 16/09/1972

BBC: Như vậy, Tổng thống Richard Nixon khi đó thật sự đã không biết gì về kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa của Henry Kissinger?

Giáo sư Stephen B. Young: Chúng ta cần phải chính xác ở điểm này. Điều mà Tổng thống Nixon không biết là Kissinger đã đưa ra đề xuất này cho Cộng sản Bắc Việt vào năm 1971.

Trong khoảng năm 1971 và 1972 đã diễn ra những cuộc thương thảo bí mật giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Vào tháng 10/1972, Kissinger đã có một bản thảo về thỏa thuận, không bao gồm điều khoản Hà Nội phải rút quân khỏi Việt Nam Cộng hòa. Rồi sau đó Kissinger đến Sài Gòn và đưa thỏa thuận này cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Thiệu khi đó bị sốc, rất giận dữ, đặt câu hỏi làm sao Mỹ có thể để Bắc Việt để khoảng 250 ngàn binh sĩ ở miền Nam Việt Nam.

Cũng vào năm 1972, sau cuộc phản công 'Mùa hè đỏ lửa' và cuối cùng Cộng sản thất bại, Hà Nội dù đã huy động 13-14 sư đoàn ở miền Nam Việt Nam để chống lại những người theo chủ nghĩa dân tộc sau ba cuộc chiến tại Quảng Trị, Kon Tum (Pleiku), An Lộc.

Khi đó Nguyễn Văn Thiệu cảm thấy được tiếp thêm sức mạnh và giờ thì Kissinger nói để quân Bắc Việt ở miền Nam Việt Nam sau tất cả sự hy sinh của miền Nam Việt Nam.

Ông Thiệu đã bác bỏ thỏa thuận và vào thời điểm đó, Nixon biết Kissinger đã làm gì nhưng lại nghĩ chuyện đó xảy ra vào tháng 10/1972. Sau khi Nixon quyết định ném bom Hà Nội, Hải Phòng, Lê Đức Thọ đưa ra thỏa hiệp.

Vào tháng 01/1973, Hiệp định Paris được ký kết, theo đó Hà Nội không phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Nhìn lại sự việc, Lê Đức Thọ từng nói đó là điều khoản vô cùng quan trọng cho Hà Nội bởi vì Bắc Việt không quan tâm đến hòa bình vì chỉ muốn chiếm Việt Nam Cộng hòa.

Vì khi Mỹ rút quân về nước, Bắc Việt rõ ràng có thể đưa thêm quân, nhận thêm xe tăng từ Liên Xô... và sau hai năm vào năm 1975, đúng như những gì Hà Nội đã nói với Henry Kissinger, Lê Duẩn đưa ra lệnh tiến hành cuộc tổng tiến công.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp chính trị gia người Pháp Jean Sainteny, Đặc ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ vào tháng 12/1946

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp chính trị gia người Pháp Jean Sainteny, Cao ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ vào năm 1946

BBC: Trong sách, ông viết rằng nguyên nhân sâu xa cho việc Henry Kissinger âm thầm lên kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa vì ngay từ đầu không tin Mỹ có thể chiến thắng trong cuộc chiến và cả từ định kiến bị ảnh hưởng từ chính trị gia người Pháp Jean Sainteny?

Giáo sư Stephen B. Young: Trước hết chúng ta hãy nói về mối quan hệ giữa Jean Sainteny và Henry Kissinger. Người vợ thứ hai của Jean Sainteny, bà Claude Dulong-Sainteny, từng tham gia seminar của Kissinger tại Đại học Harvard khi Kissinger đang theo học tiến sĩ vào 1953.

Và thông qua bà ấy, Kissinger đã quen biết Jean Sainteny.

Vào năm 1966, khi Kissinger tìm cách đạt được thỏa thuận hòa bình giữa Tổng thống Lyndon Johnson với Hà Nội, ông ta đã gặp Sainteny ở Paris. Sự thật này đã được lưu trong các hồ sơ.

Và cũng theo hồi ký của Henry Kissinger, ông ta đã lắng nghe Jean Sainteny về Việt Nam và ông ấy viết Sainteny chỉ nói với mình hai điều.

Thứ nhất, những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam Cộng hòa là vô giá trị, không thể tạo dựng quốc gia, tham nhũng, không phải là người tốt...

Thứ hai, người Mỹ không bao giờ có thể chiến thắng trong cuộc chiến này khi hậu thuẫn cho những người ở Việt Nam Cộng hòa, vô tổ chức, vô kỷ luật, tham nhũng, lười chiến đấu... Và tôi suy đoán là còn có một ý thứ ba, đó là chỉ có Hồ Chí Minh là người Cộng sản, người Việt Nam tốt.

Chúng ta hãy cùng xem lại lý do tại sao Sainteny tin vào điều này.

Sainteny đã viết quyển sách "Histoire D'une Paix Manquée Indochine 1945-1947", ông ấy đã viết về người Pháp đã phạm một sai lầm thế nào khi không hậu thuẫn cho Hồ Chí Minh, xem đây ông Hồ là một người Việt Nam tốt đẹp nhất.

Một quyển sách khác được viết vào đầu những năm 1952 mang tên "Viet-Nam Sociologie D'une Guerre" của tác giả Paul Mus, có luận điểm người Việt Nam thật sự là người Trung Quốc, với cụm từ "con rồng nhỏ hơn" (smaller dragon), và nền văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, và Việt Nam không có chủ nghĩa dân tộc. Sách của Paul Mus nói giới tinh hoa cách mạng của Việt Nam chuyển từ Khổng Tử sang chủ nghĩa Marx.

Cần nói thêm chút về người vợ đầu của Jean Sainteny. Bà ấy là con gái của cựu Toàn quyền Đông Dương vào những năm 1920, cựu Thủ tướng Pháp Albert Sarraut. Chính sách của Albert Sarraut là áp dụng chương trình giáo dục của Pháp cho con cái những gia đình quan lại chuyên học tiếng Hoa. Ý tưởng của Pháp khi đó là chỉ những người được học trường Pháp mới trở thành nhà lãnh đạo tốt được.

Hầu hết giới cai trị thực dân Pháp đều không hiểu về văn hóa Việt Nam, hay nói Tiếng Việt. Không hiểu về người Việt, Jean Sainteny cho rằng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ... những người hưởng nền giáo dục của Pháp đều học được lý thuyết Marx - Lenin từ Paris.

Jean Sainteny được đưa trở lại Việt Nam vào năm 1945 để với sứ mệnh phục hồi lại sức ảnh hưởng của thực dân Pháp ở Việt Nam, Lào, Campuchia sau Thế chiến lần 2. Khi đó Jean Sainteny không có quân đội Pháp, mà phải hợp tác với lực lượng quân đội Việt Nam.

Trong quyển sách "Histoire D'une Paix Manquée Indochine 1945-1947", Jean Sainteny viết người duy nhất cùng hợp tác với ông ấy là Hồ Chí Minh. Vua Bảo Đại khi đó cũng không muốn gặp Jean Sainteny.

Câu hỏi đặt ra là tại sao Hồ Chí Minh lại muốn hợp tác với Pháp?

Một lý do là Pháp xem Hồ Chí Minh có hưởng nền giáo dục Phương Tây. Còn Hồ Chí Minh thì cần ai đó chọn ông ấy trở thành lãnh đạo và công nhận chính phủ của ông ấy.

Jean Sainteny sau đó kể câu chuyện này với Henry Kissinger. Và Kissinger thì không có người bạn Việt Nam nào, không nói Tiếng Việt, Kissinger chọn tin vào chính trị gia người Pháp hơn.

Đó là lý do tôi đưa ra lập luận Kissinger đã chọn bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa bởi vì ông ta không biết về con người, văn hóa, những điều tốt đẹp về đất nước này.

Nhà đàm phán Bắc Việt tại Hòa đàm Paris, ông Lê Đức Thọ và Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ,  Henry Kissinger

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Nhà đàm phán Bắc Việt tại Hòa đàm Paris, ông Lê Đức Thọ và Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger vào tháng 01/1973

BBC: Tổng thống Nixon từng muốn Hiệp định hòa bình Paris là "Hòa bình trong danh dự" (peace with honor). Sau tất cả những kế hoạch của Henry Kissinger, ông bình luận như thế nào về hiệp định này?

Giáo sư Stephen B. Young: Cụm từ 'Peace with honor' là của Tổng thống Nixon. Bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1968 có thể thấy rõ hai phe, một phe ủng hộ Việt Nam Cộng hòa, một phe là muốn bỏ rơi.

Nixon và phe Cộng hòa thì muốn giúp VNCH. Phe Dân chủ thì muốn bỏ rơi VNCH.

Nixon thật sự không biết làm sao, vì vậy ông ấy nghĩ ra slogan "peace with honor", có nghĩa chiến tranh sẽ kết thúc trong danh dự, nhưng điều đó có nghĩa Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa.

Sau đó vào năm 1969, với sự ảnh hưởng của Đại sứ Bunker, Tổng thống Nixon tiến hành Việt Nam hóa chiến tranh, có nghĩa quân đội Mỹ rút đi còn quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ ngày càng mạnh lên.

Sự phản bội của Kissinger nằm ở chỗ đã mang đến "một nền hòa bình không có danh dự".

Kissinger mang lại hòa bình theo Hiệp định Paris, Việt Nam Cộng hòa được độc lập, tự do, nhưng tất cả chỉ là trên giấy tờ.

Hà Nội được duy trì binh lính ở miền Nam Việt Nam. Và hai năm sau đó, Hà Nội đã vi phạm hiệp định hòa bình này và Kissinger thừa biết là Bắc Việt sẽ thực hiện điều đó.

Đó là lý do tại sao lại là "nền hòa bình không có danh dự", bởi vì hiệp ước hòa bình lại không mang lại hòa bình thật sự, chỉ là một 'sự giả tưởng về hòa bình' [fiction of peace].

BBC: Ông đánh giá thế nào về tầm quan trọng của sự phản bội của Henry Kissinger trong sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa? Như vậy có thể nói, Việt Nam Cộng hòa đã không tự bại trận như nhiều phân tích và bình luận trước đây?

Giáo sư Stephen B. Young: Các nhân tố quan trọng khác không thể không nhắc đến đó chính là phong trào phản chiến tranh Việt Nam tại Mỹ. Thế nhưng sự phản bội của Henry Kissinger là nguyên nhân chính khiến Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.

Bởi vì nếu chúng ta nhìn kỹ vào tình hình quân sự hai phe Nam, Bắc vào thời điểm Hiệp định Paris được ký kết, khi đó văn phòng tình báo tại Đại sứ quán Mỹ ước tính số lính Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam là khoảng 25 ngàn người.

Khi đó quân lính Việt Nam Cộng hòa là hơn một triệu. Ở mọi ngôi làng ở Nam Việt Nam không còn bóng dáng Mặt trận Giải phóng Dân tộc gì hết.

Thế rồi Mỹ cắt viện trợ thế là Nguyễn Văn Thiệu và binh sĩ cạn súng, đạn, máy bay, xe tăng... Cùng lúc đó, Liên Xô và Trung Quốc lại bơm vũ khí cho Bắc Việt.

Về Tổng thống Thiệu, một thông tin rất quan trọng là vào tháng 11/1972, Tổng thống Nixon gửi cho ông ấy lá thư riêng, nêu rằng ông Thiệu nên ký Hiệp định Paris, trong trường hợp Hà Nội vi phạm hiệp định thì Nixon sẽ điều máy bay B-52 vào ném bom miền Bắc.

Thế nhưng sau khi ông Nixon từ chức sau vụ bê bối Watergate, người kế nhiệm ông ấy là Gerald Ford (1974 - 1977) lại không thấy mặn mà thực thi nghĩa vụ đó, còn phe Dân chủ trong Quốc hội Mỹ thì lại cắt viện trợ, và thông qua đạo luật có nội dung vị tổng thống không thể tự mình quyết định cử máy bay B-52 đến Việt Nam.

Như vậy chúng ta có thể thấy tình thế đã xoay chuyển. Lê Duẩn đã đưa ra quyết định vào tháng 01/1975 khi thấy thời cơ đã đến.

Việt Nam Cộng hòa lại không có đủ quân lính chốt chặn tại các vị trí dọc đường ranh giới. Hà Nội có thể tận dụng những điểm yếu đó như Buôn Mê Thuột... huy động hai đến ba sư đoàn chống lại một số lượng binh lính ít ỏi của Nam Việt Nam và chiến thắng.

Nếu Mỹ cử B-52 đến thì có lẽ Việt Nam Cộng hòa vẫn còn sống được. Và chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc chiến đầu tiên mà người Mỹ thất bại, để lại những cảm xúc nặng nề, chúng tôi bị mất đi sự kiêu hãnh vì thất bại.

Theo quan điểm của tôi, những hành động của Henry Kissinger là nguyên nhân chính [principal cause] cho sự bại trận của Việt Nam Cộng hòa bởi vì đã tạo sự chuyển biến về thế trận, quyền lực, khiến Việt Nam Cộng hòa bị bất lợi.

Nếu Kissinger vùng lên với nắm đấm, thì khi ấy Việt Nam Cộng hòa còn hơn một triệu binh lính cùng nhuệ khí, nền kinh tế phát triển... trong khi mặt trận giải phóng thì đã rút thì tình hình đã khác.

Một yếu tố khác theo tôi suy đoán, là khi ấy đã có một thỏa thuận hòa bình nên tâm lý của nhiều người Mỹ là chiến tranh đã kết thúc, nước Mỹ không cần làm điều gì nữa.

Nước Mỹ đã không hiểu hết về Việt Nam, về Lê Duẩn hay Lê Đức Thọ... Bắc Việt đã không hứa để giữ lời hứa [They don't promise to keep promises].

Ông Nguyễn Văn Thiệu và Tổng thống Nixon

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Tổng thống Richard Nixon và Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc gặp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương vào năm 1969

BBC: Ông có nghĩ rằng Kissinger là một người yêu nước, chỉ muốn làm điều tốt nhất cho lợi ích quốc gia của nước Mỹ?

Giáo sư Stephen B. Young: Ai đó có thể nghĩ như vậy nhưng tôi thì không.

Đọc rất nhiều về Henry Kissinger và đây là cảm xúc cá nhân của tôi, tôi không có tài liệu minh chứng điều này. Khi tôi kể cho mọi người và khi họ đọc sách của tôi thì đều đặt câu hỏi "Tại sao ông ta lại làm chuyện đó?", phản bội tổng thống, phản bội đồng minh. Trong lịch sử nước Mỹ, chưa ai từng làm chuyện này.

Tôi nghĩ Kissinger nghĩ mình có phẩm chất vượt trội hơn người khác, Tiếng Anh gọi là 'grandiosity', ông ấy nghĩ mình giỏi hơn, thông minh hơn hết thảy những người khác và đã tự quyết định, tự kết luận là Mỹ không thể chiến thắng và nước Mỹ hãy thoát ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam.

Tôi nghĩ ông ta là người theo chủ nghĩa hiện thực [realist], phe yếu thì không nên tấn công phe mạnh hơn.

Và như chúng ta cũng thấy trong cuộc chiến Ukraine, Kissinger cũng gợi ý người dân Ukraine nên rút lui vì Nga mạnh hơn. Và xét về phương diện này thì ông ta có suy nghĩ rất giống Lê Duẩn.

Nhà sử gia Thucydides có câu nói nổi tiếng "The strong do what they can, the weak suffer what they must" và dường như Henry Kissinger đã theo câu nói này.

Kissinger đã hành động một mình mà không nói với ai. Ông ta che giấu tài liệu, không trung thực và công khai. Nếu các bạn đọc cuộc trao đổi của ông ta với Nixon trong thời gian 1971 đến 1972 đều được ghi âm lại, đều thấy Kissinger đã không nói đầy đủ với Nixon là mình đang làm gì.

Tôi đã phát hiện các tài liệu mà chưa có nhà sử học nào tìm ra như tôi đã trình bày về quá trình viết sách. Kissinger đều rất khéo chọn từ ngữ, để che giấu dụng ý thật sự của ông ấy.

Điều tôi học được từ Kissinger là khi đọc gì của ông ta thì nên đặt câu hỏi về những gì ông ta không đề cập tới. Bởi vì đối với tôi, đó lại là những ý quan trọng nhất.

Đối với tôi, Kissinger đã lạm dụng quyền lực cùng sự thất bại trong thể chế, khi một người đàn ông tự ra quyết định một mình mà không báo cáo với tổng thống, bộ trưởng quốc phòng, ngoại trưởng, hội đồng an ninh quốc gia, quốc hội vào năm 1971.

Nếu có danh dự, lẽ ra ông ta nói thẳng với tổng thống "tôi nghĩ chúng ta không thể chiến thắng cuộc chiến tranh Việt Nam, chúng ta phải rút quân, 58 ngàn binh sĩ đã bỏ mạng, tôi ủng hộ phong trào phản chiến", giả sử Nixon không đồng ý thế là Kissinger nộp đơn từ chức.

Thế nhưng Kissinger vẫn trung thành với Nixon về một nền hòa bình với danh dự, để rồi tạo ra một nền hòa bình "không danh dự".

Quân đội Việt Nam Cộng hòa vào năm 1972

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Quân đội Việt Nam Cộng hòa vào năm 1972

BBC: Trong sách ông viết là Thượng Nghị sĩ J. William Fulbright, người ủng hộ phong trào phản chiến, từng nói với Tổng thống Lyndon Johnson là cuộc chiến Việt Nam không có giá trị bởi vì người Việt Nam "không phải dạng của chúng ta" [are not our kind]. Sau tất cả, theo ông thì nước Mỹ vẫn là một đối tác đáng tin cậy?

Giáo sư Stephen B. Young: Nước Mỹ đã bỏ rơi người dân Afghanistan, dựa vào chính sách hay cách thức thương lượng của Kissinger trong chiến tranh Việt Nam.

Hãy tưởng tượng quý vị thương lượng với kẻ thù của bạn mình, sau đó lại bỏ rơi người bạn ấy. Nước Mỹ đã thất bại trong hai cuộc chiến, và bỏ rơi người dân hai lần.

Tôi thành thật có suy nghĩ, và thật khó để phải nói ra điều này.

Đối với những quốc gia châu Á ngày nay lo ngại về sự thống lĩnh của Trung Quốc, hãy đừng quá phụ thuộc vào nước Mỹ [Don't count o­n America].

Quốc gia của quý vị phải tự bảo vệ chính mình, quý vị chỉ có thể phụ thuộc Mỹ tới mức độ nào đó mà thôi.

Bởi vì quý vị luôn phải tự đặt câu hỏi là liệu có một Kissinger nào khác nữa hay là không.

Steve B. Young

NGUỒN HÌNH ẢNH,STEVE B. YOUNG

Chụp lại hình ảnh,

Tác giả Stephen B. Young (phải) khi công tác cho cơ quan USAID ở Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long vào năm 1969

Tác giả Stephen B. Young hiện là Giám đốc Điều hành Caux Round Table for Moral Capitalism. Ông từng làm phó khoa Luật Đại học Harvard, Giáo sư Luật tại Hamline University Law School.

Giáo sư Stephen B. Young từng làm việc cho Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) từ năm 1968-1972, sau đó là Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Những năm sau 1975, ông cùng vợ tham gia trợ giúp các thuyền nhân Việt Nam tị nạn tại Mỹ.

Các tác phẩm của Giáo sư Stephen B. Young gồm Kissinger's Betrayal: How America lost the Vietnam War, The Theory and Practice of Associative Power - CORDS, The Tradition of Human Rights in China and Vietnam, Moral Capitalism, The Way to Moral Capitalism...

'Ủy ban Nobel biết Hiệp định Paris năm 1973 của Kissinger khó có thể mang lại hòa bình'

Hiệp định Paris

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Giải Nobel Hòa bình năm 1973 cho nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ Henry Kissinger và ông Lê Đức Thọ của Bắc Việt Nam, một trong những giải gây tranh cãi nhất trong lịch sử của giải này, đã được trao khi biết rõ rằng Chiến tranh Việt Nam khó có thể kết thúc sớm, các tài liệu mới được công bố cho thấy, theo Reuters.

Các đề cử cho Giải Nobel Hòa bình vẫn được giữ bí mật trong 50 năm. Vào ngày 1/1, các tài liệu về giải thưởng được trao cho ông Kissinger và trưởng đoàn đàm phán của Hà Nội, ông Lê Đức Thọ, được cung cấp theo yêu cầu.

Quyết định này đã gây sốc cho nhiều người vào thời điểm đó vì Kissinger, lúc đó là cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ và là ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Richard Nixon, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong giai đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam 1955-1975.

Stein Toennesson, giáo sư tại Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo, người đã xem xét các tài liệu, nói với Reuters: "Tôi giờ thậm chí còn ngạc nhiên hơn lúc đó, rằng ủy ban có thể đưa ra một quyết định tồi tệ như vậy."

Ông Kissinger và ông Lê Đức Thọ đã đạt được Hiệp định Paris vào tháng 1/1973, theo đó Washington hoàn thành việc rút quân khỏi miền Nam Việt Nam sau khi đã chấm dứt phần lớn các cuộc tấn công và tránh xung đột với Cộng sản miền Bắc trước tình hình tinh thần quân đội ngày càng sa sút và các cuộc biểu tình phản chiến lớn ở Mỹ.

Nhưng lệnh ngừng bắn được quy định trong hiệp định đã sớm bị cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam phớt lờ. Miền Nam từ chối ký thỏa thuận và cho rằng bị phản bội do quân cộng sản Bắc Việt không bị buộc phải rút khỏi miền Nam.

Chiến tranh tiếp tục ác liệt với quân Bắc Việt nhanh chóng tiến vào miền Nam - giờ đây phải chiến đấu mà không có sự hỗ trợ quan trọng của Hoa Kỳ và bị suy yếu bởi tình trạng hỗn loạn và tham nhũng của nhà nước.

Giao tranh chỉ kết thúc vào ngày 30/4/1975 sau khi các lực lượng Bắc Việt chiếm được Sài Gòn, gây ra một cuộc sơ tán hỗn loạn và nhục nhã của những người Mỹ và các đồng minh bằng trực thăng từ sân thượng Đại sứ quán Hoa Kỳ.

Ông Lê Đức Thọ từ chối Giải thưởng Hòa bình với lý do chưa có hòa bình. Hai trong số năm thành viên của Ủy ban Nobel Na Uy - tất cả hiện đã chết - đã từ chức để phản đối.

Ông Kissinger, dù nhận giải thưởng, đã không đến Na Uy để dự buổi lễ và sau đó đã cố gắng trả lại giải thưởng.

Ông Lê Đức Thọ, qua đời ở tuổi 78 vào năm 1990, là một tướng lĩnh, nhà ngoại giao và là thành viên Bộ Chính trị cầm quyền của Bắc Việt Nam. Ông giám sát cuộc nổi dậy của Việt Cộng ở miền Nam chống lại chính quyền Sài Gòn từ cuối những năm 1950, và sau đó là cuộc tấn công quyết định của miền Bắc năm 1974-1975 mang lại sự thống nhất dưới sự cai trị của Hà Nội.

Ông Kissinger, 99 tuổi và vẫn là một nhà bình luận nổi tiếng về chính sách đối ngoại và giải quyết xung đột, bao gồm gần đây nhất là cuộc chiến Ukraine, đã không trả lời ngay lập tức các yêu cầu bình luận về việc công bố hồ sơ Nobel Hòa bình năm 1973.

Biết rằng giải thưởng có thể không xứng đáng

Các bài báo, được Reuters xem xét, tiết lộ ông Kissinger và ông Thọ được một thành viên của ủy ban Nobel, học giả người Na Uy John Sanness, đề cử vào ngày 29/1/1973 - hai ngày sau khi ký kết hiệp định Paris.

Hàng nghìn người có thể đề cử các ứng cử viên cho giải thưởng, bao gồm một số giáo sư, người từng đoạt giải Nobel và nguyên thủ quốc gia.

"Lý do của tôi là sự lựa chọn này sẽ nhấn mạnh điều tích cực rằng các cuộc đàm phán đã dẫn đến một thỏa thuận sẽ chấm dứt xung đột vũ trang giữa Bắc Việt Nam và Hoa Kỳ," Sanness viết trong bức thư đánh máy bằng tiếng Na Uy của mình.

Nhưng ông Sanness, người qua đời năm 1984, nói thêm: "Tôi biết rằng chỉ trong thời gian tới người ta mới hiểu rõ (loại) ý nghĩa mà các hiệp định sẽ có trong thực tế."

Toennesson nói rằng thư đề cử và các báo cáo được chuẩn bị về ông Kissinger và ông Thọ cho các cuộc thảo luận của ủy ban cho thấy họ "nhận thức đầy đủ" rằng các hiệp định "không có khả năng được giữ vững".

Ông nói: "Giải thưởng được trao cho Kissinger vì đã đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam... mà không có bất kỳ giải pháp hòa bình nào ở Nam Việt Nam. Ông nói, ông Thọ được đề cử vì ban hội thẩm cảm thấy "không thể trao nó cho một mình Kissinger".

"Ông ấy (Kissinger) cần một đối tác và sau đó họ bổ sung thêm Lê Đức Thọ, người mà họ biết rất ít. Báo cáo về (ông ấy) khá yếu," Toennesson nói thêm.

Trong số các tài liệu được công bố có bức điện tín gốc mà ông Thọ gửi từ Hà Nội cho biết ông "không thể" nhận Giải thưởng Hòa bình.

Ông Thọ viết: "Khi hiệp định Paris về Việt Nam được tôn trọng, không còn tiếng súng và hòa bình thực sự được thiết lập ở miền Nam Việt Nam, tôi sẽ xem xét việc nhận giải thưởng này".

Sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam vào đầu những năm 1960 được coi là một động thái nhằm ngăn chặn sự lan rộng của Chủ nghĩa Cộng sản.

Cuối cùng, hiệp định Paris đã đóng dấu lối thoát của Hoa Kỳ khỏi khỏi một cuộc chiến bị nhiều người trong nước chỉ trích là một vũng lầy gây chia rẽ và tốn kém vô cùng, nhưng đã không làm im tiếng súng hay mang lại một nền hòa bình được đàm phán ở Việt Nam.

Vào ngày 1/5/1975, một ngày sau khi Sài Gòn sụp đổ, kết thúc chiến tranh, Kissinger đã cố gắng trả lại giải thưởng, thông qua một bức điện của Hoa Kỳ tới ủy ban Nobel, trong đó ông nói rằng "hòa bình mà chúng tôi tìm kiếm thông qua các cuộc đàm phán đã bị đảo lộn bằng vũ lực" .

Ủy ban từ chối nhận lại giải thưởng.



Henry Kissinger đã bỏ rơi miền Nam Việt Nam

Tác giả: Stephen Young

TQ Hưng chuyển ngữ

Vũ Ngọc Chi, hiệu đính

25-1-2023

Thứ Sáu này là ngày kỷ niệm 50 năm Hiệp định Hòa bình Paris của Henry Kissinger. Hiệp định đó được cho là đã chấm dứt Chiến tranh Việt Nam bằng cách khẳng định quyền của những người Việt Quốc gia được có một đất nước tự do và độc lập ở miền Nam.

Đáng tiếc, thỏa thuận của Kissinger không phải vì hòa bình mà chỉ là một hiệp định đình chiến, trong thời gian đó Cộng sản Bắc Việt đồng ý rằng họ sẽ tạm dừng chiến tranh xâm lược. Chỉ đến tháng 12 năm 1972, Tổng thống Richard Nixon cuối cùng mới nhận ra điều mà Kissinger đã thất bại trong các cuộc đàm phán bí mật với Hà Nội. Vào ngày 14 tháng 12, một Kissinger đau lòng đã để lộ sự thật khi nói với Nixon, rằng các điều khoản của thỏa thuận được đề xuất tính đến ngày đó “gần như là một cuộc bán đứng”.

Vài phút sau, Nixon nhận xét rằng, Hà Nội “chỉ sử dụng các cuộc đàm phán này cho mục đích… không phải để chấm dứt chiến tranh, mà là tiếp tục cuộc chiến dưới một hình thức khác…”

Kissinger trả lời: “Vì vậy, chúng tôi đã miễn cưỡng đi đến kết luận rằng – ngài đã trình bày điều đó rất rõ ngay bây giờ, thưa ngài Tổng thống – rằng đây không phải là một văn kiện hòa bình. Đây là một văn kiện cho chiến tranh tiếp tục, mà họ tạo ra …”

Nixon: “Chiến tranh không ngừng ở Nam Việt Nam…”

Kissinger khẳng định: “Đúng thế”.

Nixon nói tiếp: “Và hòa bình ở Bắc Việt Nam. Nói cho đúng là vậy.”

Kissinger: “Đúng vậy…”

Nixon sau đó chú tâm vào việc Kissinger bỏ rơi Nam Việt Nam: “Hòa bình ở Bắc Việt Nam và chiến tranh tiếp tục ở Nam Việt Nam, với Hoa Kỳ — và Hoa Kỳ hợp tác với họ trong … trong việc áp đặt một chính phủ Cộng sản lên người dân miền Nam Việt Nam trái với ý muốn của họ”.

Nixon sau đó suy nghĩ về những gì ông thực sự mong muốn: “Chúng ta là đảng mong muốn hòa bình ở Việt Nam, cho cả hai bên. Và hãy để tương lai của đất nước nghèo khổ, đau khổ này được quyết định bởi người dân miền Nam Việt Nam chứ không phải trên chiến trường. Đó là đề xuất của chúng ta. Chúng ta kêu gọi miền Nam và chúng ta kêu gọi miền Bắc đồng ý với điều này. Kêu gọi cả hai cùng đồng ý”.

Điều gì đã sai?

Không có sự cho phép của Tổng thống và không báo cáo sau đó với Nixon, vào ngày 9 tháng 1 năm 1971, Kissinger đề nghị với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin một kế hoạch cho Hà Nội để quân lại miền Nam Việt Nam sau khi ký hiệp định hòa bình và sau đó tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược mà không có sự phản đối của Hoa Kỳ.

Kể lại cuộc nói chuyện với Kissinger, Dobrynin cũng báo cáo với Bộ Ngoại Giao của ông ở Moscow rằng “Kissinger đã đưa ra một nhận xét khá kỳ lạ rằng cuối cùng sẽ không còn là mối quan tâm của họ, của người Mỹ, mà là của chính người Việt Nam nếu một lúc nào đó sau khi Hoa Kỳ rút quân, chiến tranh trở lại”.

Bản báo cáo đồng thời của Kissinger gửi cho Tổng thống Nixon về cuộc gặp ngày 9 tháng 1 năm 1971 với Dobrynin đã không đề cập những gì ông đã đề xuất về tương lai của Nam Việt Nam. Quan điểm công khai của Nixon vào năm 1971 là sự rút lui của các lực lượng Hoa Kỳ và Bắc Việt ra khỏi miền Nam Việt Nam, để lại hòa bình cho miền Nam Việt Nam.

Vào cuối tháng Giêng, đại sứ Liên Xô tại Hà Nội đã chuyển cho Thủ tướng Bắc Việt nội dung báo cáo của Dobrynin gửi cho Moscow. Cộng sản Việt Nam được cho biết: “Nếu Hoa Kỳ cam kết rút toàn bộ lực lượng của mình trong một thời hạn nhất định và có thể không yêu cầu phải rút đồng thời các lực lượng VNDCCH khỏi miền Nam… thì Bắc Việt phải cam kết tôn trọng lệnh ngừng bắn trong thời gian Hoa Kỳ rút quân, cộng với một một thời gian nhất định, không quá lâu, sau khi Hoa Kỳ rút quân… Nếu sau đó lại nổ ra chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc Việt Nam, cuộc xung đột đó sẽ không còn là chuyện của Hoa Kỳ nữa”.

Như vậy cam kết của Kissinger rằng Washington sẽ phủi tay không quan tâm tới những người Việt quốc gia đã được thông báo sau lưng họ cho kẻ thù của họ.

Hà Nội sử dụng một cựu quan chức thuộc địa Pháp, Jean Sainteny, để thông báo cho Kissinger trong bữa ăn trưa ngày 25 tháng 5 năm 1971, rằng họ đã chấp nhận đề nghị của Kissinger. Kissinger nói với Nixon rằng ông đã gặp Sainteny nhưng không nói chi tiết về cuộc trò chuyện trên. Ngày 31 tháng 5 năm 1971, trong cuộc gặp bí mật với các nhà ngoại giao Bắc Việt tại Paris, Kissinger đưa ra đề xuất rằng Hà Nội không cần rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Kissinger kết luận bằng câu nói: “Khi các lực lượng Hoa Kỳ cuối cùng rút đi, tương lai chính trị của Nam Việt Nam sẽ phải được giao phó cho người Việt Nam”. Nhận xét này đã không được báo cáo với Nixon.

Ngày 9 và 10 tháng 7 năm 1971, Kissinger ở Bắc Kinh gặp Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai để sắp xếp cho chuyến đi lịch sử của Tổng thống Nixon tới Bắc Kinh để gặp Mao Trạch Đông. Nhân tiện, Kissinger nói với Thủ tướng Chu Ân Lai về đề xuất lần đầu tiên được đưa ra với Đại sứ Liên Xô Dobrynin.

Trang năm trong tài liệu tóm tắt của Kissinger chuẩn bị cho cuộc gặp của ông với Chu có đoạn: “Thay mặt Tổng thống Nixon, tôi muốn trịnh trọng bảo đảm với Thủ tướng rằng, Hoa Kỳ sẵn sàng thực hiện một cuộc dàn xếp mà sẽ thực sự để lại diễn biến chính trị của Việt Nam chỉ riêng cho người Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng rút toàn bộ lực lượng của mình vào một ngày ấn định và để thực tế khách quan định hình tương lai chính trị”.

Kissinger đã không nói với Tổng thống của mình rằng ông đã có cam kết này với những người Cộng sản Trung Quốc. Ở lề trái của trang đó, Kissinger viết, “Chúng tôi muốn có một khoảng thời gian hợp lý”.

Miền Nam Việt Nam và Nixon đã không biết đầy đủ về dự định kết cuộc của Kissinger đối với Nam Việt Nam cho đến tháng 10 năm 1972, khi hắn đạt được thỏa thuận với Hà Nội về văn bản của một thỏa thuận hòa bình và trình bày thỏa thuận được đề xuất cho Tổng thống Thiệu và Nixon. Vào thời điểm đó, Nixon không thể rút lại sự nhượng bộ của Kissinger rằng Hà Nội có thể để lại quân đội của mình bên trong miền Nam Việt Nam, trước sự phản đối quyết liệt đối với cuộc chiến từ đảng Dân chủ tại Quốc hội.

Sau đó, vào tháng 11 và tháng 12 năm 1972, với sự hỗ trợ của Alexander Haig, Nixon đã cố gắng một cách tuyệt vọng để sửa đổi dự thảo hiệp định hòa bình của Kissinger theo cách có thể để làm tăng khả năng sống còn của Nam Việt Nam, cho phép một hiệp định hòa bình được ký kết và khiến các đảng viên Đảng Dân chủ trong Quốc hội sẵn sàng phê duyệt các khoản phân bổ mới để hỗ trợ quân sự cho miền Nam Việt Nam.

Những nỗ lực của ông ta đã quá muộn. Nước Mỹ đang dần dần thua lần đầu một cuộc chiến.

Tác giả: Stephen B. Young, cựu Viện trưởng Đại học Luật Hamline, là tác giả của cuốn Kissinger’s Betrayal: How America Lost the Vietnam War, sẽ được xuất bản vào tháng Tư bởi Nhà xuất bản Real Clear.

Nên hiểu thế nào về hiện tượng Kissinger

Nguyễn Quang Dy

“Nếu muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh” (Si vis pacem, para bellum).

Henry Kissinger là một cây đại thụ trong lịch sử ngoại giao Mỹ suốt năm thập kỷ qua, đã sống gần 100 tuổi nhưng không chịu ngồi yên. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (Davos, 23/5/2022), ông đã một lần nữa làm dư luận dậy sóng khi khuyên Ukraine nhượng đất cho Nga để đổi lấy thỏa thuận hòa bình.Nên hiểu thế nào về hiện tượng Kissinger? Liệu cây đại thụ Kissinger còn minh mẫn hay đã lỗi thời? Phải chăngKissinger định bắt chước Neville Chamberlain (thủ tướng Anh, 1937-1940) khi “nhân nhượng” Adolf Hitler (9/1938)?     

Chamberlain đã ngây thơ tin rằng nếu đối xử với Hitler “một cách thực tế và nghiêm túc” thì có thể thuyết phục được Hitler về hiệu nghiệm của hòa bình. Chamberlain cấm BBC và các báo đưa tin về chủ trương “nhân nhượng” (appeasement). Đó là biện pháp mà Nixon và Kissinger cũng áp dụng. Chamberlain vẫn ảo tưởng khi Đức chiếm Austria (3/1938). Tại Munich (9/1938), Anh và Pháp đã ép Czechs đầu hàng Đức. Ông không thông báo hay đề nghị nội các chấp thuận và không tham vấn Quốc hội trước khi đàm phán với Hitler. 

BBC đã cấm Winston Churchill và những người phản đối nhân nhượng không được lên sóng. Với đa số của Đảng Bảo thủ tại Hạ viện, Chamberlain cố dập tắt sự chống đối tại Quốc hội với lập luận ai chống đối là phản quốc. Khi Hitler xâm lược Ba Lan (9/1939), Chamberlain không còn lựa chọn nào khác nên phải tuyên bố chiến tranh với Đức, nhưng chỉ chiến tranh giả vờ (phony war) cho đến khi từ chức để Winston Churchill lên thay (10/5/1940). Cùng ngày, Hitler đã tấn công Tây Âu bằng đòn chớp nhoáng (blitzkrieg).

 

Neville Chamberlain (L) và Adolf Hitler (R) tại Munich, 9/1938. (Associated Press)

Bài học xưa và nay

Cũng như nhiều người khác, tôi đã từng ngưỡng mộ Henry Kissinger với các tác phẩm kinh điển như “Ý nghĩa của Lịch sử” (the Meaning of History, 1950) và “Một Thế giới được Phục hồi” (A World Restored, 1957). Nhưng sau khi thấy rõ những gì ông ấy đã làm trong chiến tranh Việt Nam và nội chiến Bangalis, tôi đã phải nhìn nhận lại. Kissinger đúng là một cây đại thụ trong lịch sử ngoại giao Mỹ đã từng làm đảo lộn thế giới, nhưng bàn tay ông ấy đã nhúng chàm diệt chủng (genocide). Sẽ nguy hiểm và ảo tưởng nếu người ta nghe theo ông ấy với trò chơi realpolitik để một lần nữa làm đảo lộn thế giới (in reserse).

Có thể nói Kissinger đã vận dụng thành công cấu trúc Quyền lực Concert of Powers của châu Âu cũ như trong cuốn A World Restored vào trật tự thế giới mới, để Nixon bắt tay Mao (2/1972) chơi “lá bài Trung Quốc” (China Card), rút quân Mỹ khỏi Việt Nam “trong danh dự” và tập trung đối phó với Liên Xô trong chiến tranh lạnh. Nhưng cái giá cho trò chơi realpolitik là phải hy sinh Đài Loan vì “Một nước Trung Quốc” (One China Policy) và bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa cũng như Hoàng Sa (1/1974), sau Hiệp định Paris (1/1973).  

 

Mao Trạch Đông (R) và Chu Ân Lai gặp ngoại trưởng Henry Kissinger (L) tại Bắc Kinh, 17/2/1973. (File Photo)

Kissinger đã tạo ra bước ngoặt lịch sử cho quan hệ hợp tác Mỹ-Trung trong một trật tự thế giới mới với chủ trương “Tiếp cận Xây dựng” (Constructive engagement) mà năm đời tổng thống Mỹ đã theo đuổi. Nói cách khác, Kissinger đã có công giúp Trung Quốc trỗi dậy như quái vật Frankenstein (lời tổng thống Nixon). Trong khi Nixon đã mở miệng thừa nhận sự thật và sai lầm lịch sử trước khi nhắm mắt, thì Kissinger vẫn ngậm miệng ăn tiền để nhận giải thưởng Nobel hòa bình, và nay còn định đảo ngược lịch sử một lần nữa.  

Theo Kissinger, “thật không khôn ngoan khi có thái độ thù địch với hai đối thủ và thúc đẩy họ xích lại gần nhau. Trước mắt, chúng ta không nên gộp cả Nga và Trung Quốc lại với nhau như một yếu tố không thể tách rời. Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên hoàn toàn mớiPutin đã tính toán sai về tình hình mà ông ấy phải đối mặt trên trường quốc tế và tính sai khả năng của Nga. Nhưng liệu Putin có leo thang chiến tranh bằng cách chuyển sang một loại vũ khí chưa bao giờ được sử dụng?” (Henry Kissinger: Hiện nay chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên hoàn toàn mới, Edward Luce, Financial Times, May 16, 2022). 

Một ông già đã 98 tuổi mà vẫn suy nghĩ được như vậy quả là “xưa nay hiếm”. Rõ ràng đầu óc của Kissinger còn sáng suốt hơn đầu óc của Putin, tuy tuổi của họ cách nhau hơn hai giáp. Gần đây, Putin đã trả đũa Mỹ bằng cách cấm các lãnh đạo Mỹ nhập cảnh vào Nga, trong đó có cố thượng nghị sỹ John McCain. Chắc Putin không đùa. Nhưng điều đó không có nghĩa Kissinger không ngộ nhận và sai lầm. Dư luận nói chung và người Ukraine nói riêng không chấp nhận lời khuyên của Kissinger, không phải vì ông quá già mà vì ông ngạo mạn khi coi thường người Ukraine. Ý kiến của Kissinger phản ánh quan điểm của Putin.  

Kissinger cảnh báo: “phương Tây đừng bao giờ quên tầm quan trọng của Nga đối với châu Âu. Các cuộc đàm phán phải bắt đầu trong hai tháng tới, trước khi cục diện tạo ra những biến động và căng thẳng không dễ vượt qua. Lý tưởng nhất, đường phân chia nên trở lại nguyên trạng trước đây. Theo đuổi cuộc chiến quá thời điểm đó sẽ không còn liên quan đến quyền tự do của Ukraine, mà là một cuộc chiến mới chống lại Nga. (Henry Kissinger Ukraine must give Russia territory, May 23, 2022). 

 

Henry Kissinger (L) gặp tổng thống Donald Trump (R) tại Nhà Trắng,10/10/2017. (Mandel Ngan/AFP/Getty Images)

Lời khuyên của Kissinger đã bị người Ukraine bác bỏ. Một cuộc thăm dò do Viện Xã hội học Kyiv công bố gần đây cho thấy 82% người Ukraine nói rằng họ không muốn nhượng lãnh thổ cho Nga. Kiện tướng cờ vua người Nga Garry Kasparov và là nhà hoạt động chính trị, đã viết trên Twitter rằng lập trường mới nhất của ông Kissinger về Ukraine không chỉ vô đạo đức mà còn “được chứng minh là sai lầm lặp đi lặp lại nhiều lần”.

Mykhailo Podolyak (Cố vấn của Tổng thống Zelensky) nói rằng “bất kỳ nhượng bộ nào đối với Nga không phải là con đường dẫn đến hòa bình, mà chỉ có thể trì hoãn chiến tranh trong vài năm”. Zelensky từng nhiều lần nhấn mạnh rằng một trong những điều kiện để ông tham gia các cuộc đàm phán hòa bình là Nga phải đồng ý để Ukraine khôi phục những khu vực vốn thuộc kiểm soát Ukraine vào trước ngày Nga xâm lược (24/2/2022).

Theo Richard Haass (CFR President) đề xuất của Kissinger có thể bị Ukraine từ chối “vì yêu cầu Ukraine từ bỏ quá nhiều” và dễ bị Putin từ chối “vì cho Nga quá ít”. Ý tưởng dùng cộng đồng quốc tế để cô lập Trung Quốc và cố hội nhập nó vào một trật tự thế giới phù hợp với lợi ích của chúng ta lúc này là không khả thi”. (Kissinger suggests that Ukraine give up territory to Russia, drawing a backlash,Dan Bilefsky, NYTMay 24, 2022).

Theo bà Ursula von der Leyen (EC President), một ngày nào đó Nga có thể khôi phục vị trí của họ ở châu Âu nếu nước này “tìm đường trở lại với dân chủ, pháp quyền và tôn trọng trật tự dựa trên luật lệ quốc tế, bởi vì Nga là nước láng giềng của chúng ta”. Nhưng ở thời điểm này thì cuộc chiến bảo vệ đất nước của Ukraine không chỉ là “vấn đề sống còn của Ukraine” hay “vấn đề an ninh châu Âu” mà còn là “nhiệm vụ của toàn cầu”.

Bóng ma Việt Nam

Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt năm 1975, nhưng hai thập kỷ sau chiến tranh (năm 1995), Robert McNamara mới xuất bản cuốn hồi ký thừa nhận sai lầm về Việt Nam, nhưng muộn còn hơn không. Năm 2003, McNamara còn xuất hiện trong bộ phim tài liệu “Sương mù chiến tranh” (The Fog of War) của Errol Morris. Putin kể lại sự nghiệp tại Bộ Quốc Phòng và những thất bại trong chiến tranh Việt Nam. (In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam, Robert McNamara with Brian Van De Mark, Random House, 1995).

Con trai Robert McNamara là Craig McNamara (một chủ trang trại) vừa xuất bản cuốn hồi ký kể lại về bi kịch của gia đình mình từ sau chiến tranh Việt Nam đến nay (5/2022). Craig cũng là một nạn nhân bất đắc dĩ của cuộc chiến tranh Việt Nam mà anh mang đầy mặc cảm, với nhiều kỷ niệm đau buồn và bất hạnh trong quan hệ với người cha nổi tiếng. Cuốn sách của Craig chứa đựng nhiều tâm sự chân thành của một tác giả chính trực dám nói lên sự thật. (Because Our Fathers Lied, Craig McNamaraLittle Brown, May 10, 2022). 

Henry Kissinger cũng viết hồi ký và sách của ông cũng bán rất chạy. Nhưng khác với Robert McNamara, Kissinger không thừa nhận sai lầm trong chiến tranh Việt Nam và hệ quả của những việc ông đã làm. Dù Kissinger được nhiều người ngưỡng mộ như “superman” thì lịch sử vẫn coi ông là tội phạm chiến tranh vì những gì ông đã làm ở Đông Dương và Bangalis. Dù Putin được nhiều người ngưỡng mộ như “Putin Đại đế” thì lịch sử vẫn coi ông là tội phạm chiến tranh vì những gì ông đã làm ở Ukraine. Với trò chơi Realpolitics, Nixon và Kissinger sẵn sàng bắt tay với Mao và Putin, cũng như chấp nhận diệt chủng ở Bangalis.  

 

Le Duc Tho (L) và Henry Kissinger (R) tại Paris, 1/1973. (File photo)

Những ai đã nghiên cứu chiến tranh Việt Nam chắc biết chiến dịch ném bom Camphuchia và Lào do Kissinger đạo diễn, nhưng phải “bí mật” để che dấu báo chí. Theo một báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ (1973), Nixon và Kissinger đã phê chuẩn 3.875 phi vụ ném bom Campuchia (1969-1970). Vào cuối chiến dịch ném bom Operation Menu, Mỹ đã dùng 110.000 tấn bom, giết hại khoảng 150.000-500.000 dân thường. Ngoài ra, Mỹ đã dùng máy bay B52 ném bom Hà Nôi trong đó có bệnh viện Bạch Mai (Chrismas bombing 1972).   

Kissinger vừa leo thang chiến tranh, vừa tìm cách chấm dứt chiến tranh Việt Nam, làm Mỹ tốn khoảng 30 tỷ USD mỗi năm. Kissinger đã lãng phí bốn năm đàm phán tại Paris, với tổng số 68 lần gặp, nhưng đến đầu năm1973 vẫn phải chấp nhận các điều kiện như năm 1969. Kết cục là 2,5 đến 3 triệu người Việt Nam và Đông Dương đã bị chết cùng với 58.000 ngàn lính Mỹ, trong đó có 1.600 người được coi là mất tích trong chiến đấu (MIA). Trong khi ông Lê Đức Thọ đã từ chối thì ông Kissinger vẫn nhận giải thưởng Nobel hòa bình.   

Theo Alan Schwartz (Vanderbilt University) Nixon không ngờ Kissinger có thể qua mặt mình khi Gallup Poll đánh giá Kissinger là “người được ngưỡng mộ nhất nước Mỹ” (1973-1974). Tuy sau đó vụ bê bối Watergate đã buộc tổng thống Nixon phải từ chức, nhưng chính Kissinger đã lệnh cho FBI nghe trộm điện thoại các thành viên Hội đồng An ninh Quốc gia xem họ có lộ tin ném bom Campuchia cho báo chí không. Đến 30/4/1975 khi Sài Gòn sụp đổ, thì kết quả đàm phán hòa bình của ông Kissinger cũng tan thành mây khói.

Khi điều trần tại Quốc hội Pháp về thất bại Điện Biên Phủ, tướng Christian De Castries đã kết luận một câu làm nhiều người ngỡ ngàng: Chúng ta có thể thắng một trận đánh nhưng “không thể thắng một dân tộc”.  Đó là một sự thật. Chủ nghĩa dân tộc và lợi ích quốc gia luôn là nhân tố quyết định cuộc chơi (game changer). Người Mỹ đã ngộ nhận và thất bại tại Việt Nam. Nay người Nga cũng ngộ nhận và đang thất bại tại Ukraine. Cả Nga và Mỹ từng ngộ nhận và thất bại tại Afghanistan, vì họ đã không rút được bài học lịch sử. Dưới thời tổng thống John Kenedy, những người tuổi trẻ tài cao (the Best and the Brightest) đã ngộ nhận và sai lầm về Việt Nam vì không rút được bài học của người Pháp (trừ George Ball).

Bóng ma Bangalis

Phong cách “ngoại giao bí mật” (secret diplomacy) của Kissinger tuy có hiệu quả nhưng gây tranh cãi vì trái với các giá trị dân chủ truyền thống. Di sản Việt Nam và Bangalis là vết đen trong sự nghiệp mà Kissinger gọi là “một kinh nghiệm quốc gia bi thảm” (a tragic national experience). Kissinger thường bị sinh viên tẩy chay mỗi khi trở về Harvard là nơi ông từng giảng dậy. Bóng ma Việt Nam và Bangalis vẫn ám ảnh ông.

Để có thể rút quân Mỹ khỏi Việt Nam “trong danh dự”, và để đối phó với Liên Xô trong thời chiến tranh lạnh, Kissinger đã bí mật gặp lãnh đạo Trung Quốc mấy chục lần, nhưng nhiều thành viên nội các và Bộ Ngoại Giao Mỹ không biết. Pakistan là cầu nối Washington với Bắc Kinh, mà tướng Yahya Khan là đầu mối bí mật của Kissinger, khi “ngoại giao bóng bàn” giữa Mỹ và Trung Quốc nổi tiếng từ năm 1971. Kissinger đã đặt nền móng cho quan hệ Mỹ-Trung, làm thay đổi lịch sử và bàn cờ nước lớn trong mấy thập kỷ.

Kissinger đã vận dụng mô hình “Concert of Europe” của thế kỷ 19 vào bàn cờ chiến tranh lạnh trong mấy thập niên của thế kỷ 20. “Lá bài Trung Quốc” đã góp phần làm Liên Xô sụp đổ như end game. Mao đã nhận xét, “chừng nào mục tiêu của chúng ta giống nhau, thì chúng tôi không làm hại Mỹ nếu Mỹ không làm hại chúng tôi. Chúng ta có thể cộng tác để đối phó với Liên Xô”. Trong thập niên 1980, Trung Quốc đã cộng tác với Mỹ để chống Liên Xô ở Afghanistan, và đã cho CIA lập hai trạm trinh sát điện tử tại khu vực Tân Cương.

Nhưng cái giá phải trả cho “lá bài Trung Quốc” là Nixon và Kissinger đã tòng phạm với chính phủ Pakistan của tướng Yahya Khan đàn áp người Bangalis trong cuộc nội chiến (1971). Vì trò chơi realpolitik mà Kissinger đã lờ đi cho Pakistan tàn sát 300.000 người Bangalis (Bangladesh ngày nay), và làm 10 triệu người chạy sang Ấn Độ tị nạn. Nói cách khác, Nixon và Kissinger đã tiếp tay cho chính phủ Pakistan phạm tội diệt chủng. (The Blood Telegram-Nixon, Kissinger and a Forgotten Genocide, Gary Bass, Alfred Knopf, 2013).

Theo tác giả Gary Bass (12/1970) khi đảng Awami League tại Đông Pakistan giành thắng lợi trong cuộc bầu cử và đòi tự trị, tướng Yahya Khan đã lệnh cho quân đội can thiệp. Vì Nhà Trắng lờ đi nên quân đội Pakistan (hầu hết là Muslim) đã tàn sát ít nhất 300.000 người Bengalis, (hầu hết là Hindus) buộc 10 triệu người Bangalis chạy sang Ấn Độ tị nạn. Nixon và Kissinger đã phớt lờ bức điện của Tổng Lãnh sự Mỹ Archer Blood ở Dacca khi ông tố cáo quân đội Pakistan tàn sát người Bangalis là tội ác diệt chủng. Nhà Trắng không lên án tướng Yahya Khan mà còn tiếp tục cung cấp vũ khí và đạn dược cho quân đội Pakistan.

Trong các cuộn băng ghi âm bí mật của Nhà Trắng, người ta bị sốc khi nghe giọng của Nixon và Kissinger khi họ diễu cợt những ai thương xót người dân Bangalis đang bị tàn sát. Họ đã phớt lờ bức điện của Tổng Lãnh sự Archer Blood và 20 nhân viên ngoại giao Mỹ ở Đông Pakistan, khi báo cáo với Washington về tội ác “diệt chủng có chọn lọc” (selective genocide) nhắm vào giới trí thức Bengalis. Trong khi Nixon và Kissinger có thái độ thân mật với độc tài Pakistan là tướng Yahya Khan, thì họ có thái độ thô lỗ với chính phủ Ấn Độ. Thậm chí Nixon đã gọi bà Indira Gandhi là “chó đẻ” (old bitch) chỉ vì thân Liên Xô.  

Tính bất cẩn của Nixon và Kissinger ngày càng lộ liễu khi họ điều động các chiến hạm của Hạm đội 7 tới vịnh Bangal và khuyến khích Trung Quốc điều quân tới biên giới Ấn Độ. Nói cách khác, trong thập niên 1970, chính sách ngoại giao của Nixon và Kissinger thực chất là trò chơi Realpolitik trong một ván cờ địa chính trị để phân hóa phe cộng sản bằng Nixon-Mao détente. Kết cục chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Nixon (2/1972) đã mở đường cho quan hệ Mỹ-Trung trong suốt năm nhiệm kỳ tổng thống Mỹ.  (Henry Kissinger’s Controversial Role in the Vietnam War, Jessica Pearce Rotondi, History, May 9, 2022).

Vladimir Putin (left) and Henry Kissinger (right) in 2007 Credit: EPA/SERGEI CHIRIKOV

“Lá bài Trung Quốc” và “lá bài Nga”

Kissinger nay vẫn còn tham vọng muốn áp đặt trò chơi Realpolitik làm đảo lộn trật tự thế giới một lần nữa. Khi còn làm ngoại trưởng, Kissinger đã đạo diễn cho tổng thống Nixon sang thăm chính thức Trung Quốc (2/1972) để bắt tay với Mao, nhằm rút quân khỏi Việt Nam và chống Liên Xô trong chiến tranh lạnh. Kissinger đã giúp Trung Quốc trỗi dậy như con quái vật Frankenstein. Kissinger với “China Lobby đã định hướng chính sách đối ngoại Mỹ bằng “Tiếp cận Xây dựng” (Constructive Engagement) với Trung Quốc.   

Khi Donald Trump vừa thắng cử, Kissinger đã nhận ra cơ hội mới để vận dụng trò chơi Realpolitik một lần nữa biến “lá bài Trung Quốc” thành “lá bài Nga”. Kissinger muốn Mỹ thân với Nga để cô lập và ngăn chặn Trung Quốc. Kissinger đã gặp Trump ba lần để thuyết phục Trump và các quan chức, trong đó có con rể của Trump là Jared Kushner. Trump và một số quan chức chính quyền thấy chiến lược đảo chiều (reverse strategy) của Kissinger hấp dẫn, nhưng thiếu thực tế địa chính trị nên chưa dám triển khai. 

Kissinger đã cố vấn cho tổng thống Nixon dùng “lá bài Trung Quốc” để cô lập Liên Xô trong chiến tranh lạnh. Nay ông muốn đảo ngược trò chơi đó bằng “lá bài Nga” để cô lập Trung QuốcKissinger đã gặp Donald Trump ít nhất ba lần ngay sau khi Trump thắng cử để thuyết phục ông hợp tác với Nga để ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy. Kissinger còn thuyết phục các quan chức khác trong Nhà Trắng, trong đó có con rể Trump là Jared Kushner. (Henry Kissinger Pushed Trump to Work With Russia to Box In China, Bethany Allen-Ebrahimian,  Andrew Desiderio, Sam Stein, Asawin Suebsaeng, Daily Beast, July 31, 2018).

Theo Daily Beast, cuộc gặp cấp cao ở Helsinki (7/2018) là một cơ hội để Trump gặp Putin, nhưng bối cảnh lúc đó không thuận lợi để Trump tăng cường quan hệ với Moscow vì Robert Mueller đang điều tra cáo buộc Putin tác động đến kết quả tranh cử của Mỹ. Thái độ của Trump tại cuộc gặp cấp cao ở Helsinki và họp NATO ở Brussels tuy gây tranh cãi nhưng được các nhân vật bài Trung trong Nhà Trắng và Quốc hội ủng hộ, trong đó có Steve Bannon, Peter Navarro, Robert Lighthizer, Marco Rubio, Tom Cotton...Một số quan chức Nhà Trắng cho rằng Nga là “đối trọng hữu ích” (useful counterweight) với Trung Quốc.

Theo Giám đốc FBI Christopher Wray, “Trung Quốc là mối đe dọa lớn nhất, quan trọng nhất và thách thức cao nhất”.  Phó Giám đốc CIA phụ trách Đông Á Michael Collins cho rằng Trung Quốc đang tiến hành “một cuộc chiến tranh lạnh” chống lại Mỹ. Theo Giám đốc nghiên cứu quốc phòng Harry Kazianis (Center for the National Interest), “Tôi không bị sốc khi người ta coi Nga là đối tác tiềm năng để ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy”. Kissinger không phải là một nhân vật ghét Nga (Russophobe) vì ông đã từng gặp Putin 17 lần.

Đây là “chiến lược Kissinger đảo ngược” để biến “lá bài Trung Quốc” thành “lá bài Nga”. Nhưng nên nhớ từ năm 1972 đến nay, Kissinger đã khuyến cáo Mỹ “coi Trung Quốc là bạn”, và phải bắt tay với Trung Quốc “như một đối tác đáng tin cậy”. Kissinger chưa bao giờ là một diều hâu đối với Bắc Kinh, và ông luôn duy trì một đường dây nóng trực tiếp (direct line) với Tập Cận Bình, nên hợp tác với Nga để chống Trung Quốc không dễ.

Tham khảo

1. In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam, Robert McNamara with Brian Van De Mark, Random House, 1995.

2. The Blood Telegram-Nixon, Kissinger and a Forgotten Genocide, Gary Bass, Alfred Knopf, 2013

3. Henry Kissinger Pushed Trump to Work With Russia to Box In China, Bethany Allen-Ebrahimian,  Andrew Desiderio, Sam Stein, Asawin Suebsaeng, Daily Beast, July 31, 2018 

4. Neville Chamberlain: A Failed Leader in a Time of Crisis,

Lynne Olson, New York Times,  June 10, 2019

5. Because Our Fathers Lied, Craig McNamaraLittle Brown, May 10, 2022

6. Henry Kissinger’s Controversial Role in the Vietnam War, Jessica Pearce RotondiHistory, May 9, 2022

7. Henry Kissinger: We are now living in a totally new era, Edward Luce, Financial Times, May 16, 2022

8. Henry Kissinger: Ukraine must give Russia territory, May 23, 2022

9. Kissinger suggests that Ukraine give up territory to Russia, drawing a backlash,Dan Bilefsky New York Times, May 24, 2022

NQD



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế
Ukraine trước nguy cơ bị đảng Cộng Hòa của Trump bỏ rơi như VNCH thời TT Ford!
Nhiều nước thế giới cấm công dân miền Bắc CHXHCNVN nhập cảnh!
Tưởng niệm tháng tư 75
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi
Tỷ lệ dân số độc thân Việt Nam và Đông Nam Á
Đất nước tiến lên đỉnh cao Mại Dâm chủ nghĩa, hoa hậu, hoa khôi giá cao, hoa hậu thế giới VN cao nhất 200 triệu đồng/phát
Nỗi nhục dân tộc do những công dân gương mẫu CSBV tức CHXHCNVN

     Đọc nhiều nhất 
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi [Đã đọc: 828 lần]
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin [Đã đọc: 472 lần]
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến [Đã đọc: 404 lần]
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế [Đã đọc: 366 lần]
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học [Đã đọc: 343 lần]
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt [Đã đọc: 340 lần]
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ [Đã đọc: 290 lần]
Tưởng niệm tháng tư 75 [Đã đọc: 280 lần]
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975 [Đã đọc: 247 lần]
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng [Đã đọc: 244 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.