Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Năm 2025
T2T3T4T5T6T7CN
      1 2 3 4
5 6 7 8 9 10 11
12 13 14 15 16 17 18
19 20 21 22 23 24 25
26 27 28 29 30 31  
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 10
 Lượt truy cập: 26848186

 
Khoa học kỹ thuật 15.05.2025 19:18
Cựu CIA Frank Snepp và 'cuộc tháo chạy hỗn loạn'tháng 4-75
28.04.2025 19:09

Cựu CIA Frank Snepp và 'cuộc tháo chạy hỗn loạn' trong thời khắc cuối của Sài Gòn
Sau 50 năm, những bóng ma của Chiến tranh Việt Nam vẫn ám ảnh cựu CIA Frank Snepp. Ông không bao giờ quên được hình ảnh cuối cùng trước thời khắc Sài Gòn sụp đổ và việc Mỹ đã bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng hòa như thế nào

Cựu điệp viên CIA Frank Snepp, người đã cho điều chiếc trực thăng trong bức ảnh nổi tiếng cho sự sụp đổ của Sài Gòn, chia sẻ về thời khắc cuối cùng ở thủ đô này

Nguồn hình ảnh,Getty Images/Frank Snepp

Chụp lại hình ảnh,Cựu điệp viên CIA Frank Snepp, người đã cho điều chiếc trực thăng trong bức ảnh nổi tiếng về sự sụp đổ của Sài Gòn, chia sẻ về thời khắc cuối cùng trước khi chiến tranh kết thúc.

Sau khi trở về Mỹ, ông đã viết cuốn sách Decent Interval, với nhan đề ngụ ý về việc Mỹ muốn có một khoảng cách thời gian hợp lý giữa việc rút quân và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa (khoảng thời gian 'coi được'), để Mỹ không bị coi là đã bỏ rơi đồng minh hoặc thua trận một cách trực tiếp.

Trong suốt cuộc nói chuyện kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ với BBC News Tiếng Việt, cựu điệp viên CIA có lúc nhắm mắt, im lặng hồi tưởng những khoảnh khắc cuối cùng trước khi rời Sài Gòn. Ông nói mình bị ám ảnh bởi những bóng ma chiến tranh, bởi những mặt người, tiếng hét, tiếng cầu cứu và ông ước rằng mình đã chọn lựa khác đi để có thể bắt đầu kế hoạch di tản sớm hơn và từ đó cứu được nhiều mạng người hơn.

"Tôi vẫn thường nghĩ: điều gì sẽ xảy ra nếu khi đó tôi hét vào mặt ông đại sứ, làm ầm ĩ lên và nói rằng: Chúng ta có thể đưa người dân ra bờ biển, hãy làm đi. Hãy sơ tán họ bằng đường đó. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi nắm cổ áo ông đại sứ và nói: Làm ơn hãy tin vào những gián điệp giỏi nhất của chúng ta."

"Nhưng tôi đã không làm gì cả. Tôi là một cấp dưới vâng lời.... Tôi ước gì mình đã can đảm hơn. Nhưng tôi đã không được như vậy," ông Snepp nói.

Chúng tôi bắt đầu cuộc trò chuyện bằng ngày cuối cùng của nhà phân tích chiến lược của CIA ở Sài Gòn.

FrankSnepp

Nguồn hình ảnh,Frank Snepp

Chụp lại hình ảnh,Cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và Frank Snepp trong một sự kiện tại Paris vào năm 1978.

'Tất cả là một cơn hỗn loạn điên rồ'

BBC: Thưa ông, chiến tranh đã kết thúc 50 năm, ông còn nhớ gì về những ngày cuối cùng ở Sài Gòn vào tháng 4/1975?

Frank Snepp: Một ngày trước khi cuộc chiến kết thúc, 29/4 là một cảnh tượng hỗn loạn, thời điểm mà bất cứ ai, dù là đàn ông, đàn bà hay trẻ em đều phải tự lo lấy thân mình.

Đại sứ quán Mỹ không hề có nổi một danh sách tổng những người Việt Nam thuộc diện nguy hiểm nhất, những người đáng được di tản trước tiên - vì không ai nghĩ rằng chúng tôi sẽ thật sự đối mặt với thời khắc đó nhanh đến vậy, trừ tôi và một vài người khác được tiếp cận các thông tin tình báo liên quan.

Vì vậy, chúng tôi hoàn toàn không có sự chuẩn bị nào cho ngày cuối ấy.

Những thông tin mật mà Võ Văn Ba phím cho tôi đã khiến quân đội Mỹ bắt đầu lên kế hoạch cho một chiến dịch không vận khẩn cấp. Đến sáng ngày 29/4, các đường băng ở phi trường Tân Sơn Nhứt đã bị phá hủy hoàn toàn, có nghĩa: lối thoát duy nhất là bằng trực thăng.

Những trực thăng lớn từ hạm đội ngoài khơi đến tận buổi chiều mới bay vào thành phố vì họ quên mất sự chênh lệch múi giờ giữa Sài Gòn và Giờ chuẩn Greenwich (GMT).

Suốt buổi sáng hôm đó, chúng tôi chỉ có thể tùy cơ ứng biến, sơ tán mọi người bằng bất cứ cách nào có thể.

Tất cả phụ thuộc vào 17 chiếc trực thăng nhỏ của Air America - hãng hàng không độc quyền của CIA. Những chiếc trực thăng nhỏ này cứ bay lượn quanh thành phố, đón người và đưa người đến các địa điểm tập kết, chủ yếu là Đại sứ quán Mỹ và Văn phòng Tùy viên Quốc phòng tại phi trường Tân Sơn Nhứt, để chờ trực thăng lớn đưa đi.

Đôi lúc những chiếc máy bay của Air America phải lao thẳng ra hạm đội ngoài khơi, nhưng không hề có cuộc sơ tán diện rộng nào. Không ai biết nên đi đâu. Hoàn toàn hỗn loạn. Đó là một cuộc giành giật trong tuyệt vọng để được đưa đi.

Đến giữa buổi sáng, đại sứ quán đã trở thành một pháo đài ngập giữa biển người - hàng ngàn người Việt Nam gào khóc, la hét, chen lấn, leo tường để vào được bên trong khuôn viên vì họ biết rằng những chiếc trực thăng lớn có thể rời đi từ tòa đại sứ.

Những người dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng cố gắng trèo qua bức tường của Đại sứ quán Hoa Kỳ để chạy trốn khỏi Sài Gòn vào ngày 29/4/1975. Một ngày sau đó, Quân Giải phóng tiếp quản thủ đô và Chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc.

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Những người dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng cố gắng trèo qua bức tường của Đại sứ quán Hoa Kỳ để chạy trốn khỏi Sài Gòn vào ngày 29/4/1975. Một ngày sau đó, cộng sản tiếp quản thủ đô và Chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc.

Tôi đến đại sứ quán lúc khoảng 6 giờ sáng. Tôi đã không ngủ trong nhiều ngày. Cuối cùng tôi chợp mắt được một chút vào 4 giờ sáng thì bị đánh thức bởi tiếng pháo kích của quân cộng sản vào sân bay Tân Sơn Nhứt. Tiếng nổ như sấm dội và tôi bật dậy, cố hết sức chen qua dòng người để vào trong tòa đại sứ.

Tôi bắt đầu làm mọi việc có thể - giúp những người trèo qua tường, chỉ đạo trực thăng đến đón những người đang cầu cứu.

Phòng tác chiến của CIA khi đó thật hỗn loạn. Mọi người gào lên qua radio: "Xin hãy cứu tôi! Tôi đang ở địa điểm này! Tôi là người Mỹ! Tôi là người Việt Nam! Xin đừng bỏ rơi tôi!"

Chúng tôi điều trực thăng đi cứu càng nhanh càng tốt.

Vào khoảng giữa buổi sáng, trưởng trạm CIA đến tìm tôi nói rằng bạn gái của ông ta bị kẹt lại. Chúng tôi phải cử trực thăng đến đón cô ấy. Tôi nói: "Đưa cô ấy đến tòa nhà của tôi", nhưng rồi chợt nhớ ra chung cư của tôi đã bị quá tải, sân thượng để đón trực thăng đã chật kín người.

Tôi liền kêu họ đổi hướng đến số 22 đường Gia Long. Đó là tòa nhà nổi tiếng trong bức ảnh lịch sử – nơi có chiếc trực thăng đậu trên mái nhà và một người Mỹ đang kéo những người leo lên thang. Chính tôi đã cử chiếc trực thăng ấy tới mái nhà đó sáng hôm 29/4 để đón bạn gái trưởng trạm CIA.

Người chỉ huy chiến dịch trực thăng đó là O.B. Harnage, chính là người trong bức ảnh, đang nghiêng người trên mái nhà để kéo người lên. Chiến dịch đó kéo dài đến tận chiều tối và thực tế có tới ba chiếc trực thăng Air America lần lượt hạ cánh trên mái nhà đó.

Chiếc trực thăng trên nóc tòa nhà số 22 đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng) đưa người đi sơ tán vào ngày 29/4/1975

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Chiếc trực thăng trên nóc tòa nhà số 22 đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng) đưa người đi sơ tán vào ngày 29/4/1975.

Tuy nhiên, bạn gái của Trưởng trạm CIA lại không nằm trong số những người được cứu đi. Nhưng chúng tôi đã đưa được cựu giám đốc tình báo Sài Gòn (tức Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ thời Ngô Đình Diệm; chuyến bay này còn có Trung tướng Trần Văn Đôn - BBC chú thích) lên máy bay, cùng nhiều người khác. Ai đến trước thì được đi trước. Tất cả đều hỗn loạn.

Trong ngày hôm đó, tôi còn xuống sát bức tường tòa đại sứ để giúp nhiều người leo qua. Người ta gào thét cầu cứu, tôi nắm tay kéo người này lên, rồi phát hiện ra một bà mẹ đã bỏ lại đứa con nhỏ. Chúng tôi lại phải tìm cách đưa đứa trẻ qua bức tường. Người ta đánh nhau, giành giật để được cứu trước.

Chúng tôi thỉnh thoảng mở cổng bên hông tòa đại sứ cho dòng người ùa vào.

Cuối cùng, vào cuối buổi chiều, những chiếc trực thăng lớn từ hạm đội mới bắt đầu tới nơi nhưng họ không thể đáp được ngay trên nóc tòa đại sứ mà phải hạ cánh trong sân.

Khi đó, cánh quạt trực thăng đã thổi tung các gói tài liệu mật mà chúng tôi đem ra sân để tiêu hủy, khiến giấy tờ, dù đã xé đi một phần, bay tán loạn trên cây cối, mặt đường. Khi quân Bắc Việt tiến vào, họ chỉ việc dán lại là đọc được những thông tin mật.

Đó thực sự là một cơn ác mộng.

Các thường dân di tản lên trực thăng của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ bên trong khuôn viên Đại sứ quán Mỹ, để được trực thăng vận ra Hạm đội 7 của Hoa Kỳ trước khi quân cộng sản tiến vào Sài Gòn trong ngày cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975 (Ảnh do Nik Wheeler/Corbis thực hiện qua Getty Images).

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Các thường dân di tản lên trực thăng của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bên trong khuôn viên Đại sứ quán Mỹ để được trực thăng vận ra Hạm đội 7 của Hoa Kỳ trước khi quân cộng sản tiến vào Sài Gòn trong ngày cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975.

Tôi liên tục vào phòng tác chiến để nhận tín hiệu cầu cứu và cố gắng điều trực thăng đến đón người. Trưởng trạm CIA, Tom Polgar – người mà tôi rất kính trọng – đã để lại những người mà ông ấy rất gắn bó bên ngoài bức tường của tòa đại sứ, bao gồm cả bạn gái của ông ấy.

Vì vậy, ông trở nên hoàn toàn mất tập trung còn ông đại sứ thì bắt đầu suy sụp.

Sáng hôm đó, tôi nhiều lần xuống văn phòng ông đại sứ. Có lần, tôi thấy ông quỳ gối tự tay xé nát tài liệu, rồi nhét những tài liệu quan trọng khác vào cặp, vì ông biết mình sẽ bị đổ lỗi và cần bằng chứng để tự vệ.

Trên hành lang, tôi cũng thấy nhiều nhân vật quan trọng tìm cách chen vào. Cả Trung tướng Đặng Văn Quang – Cố vấn An ninh Quốc gia – cũng tuyệt vọng tìm đường thoát thân.

Thậm chí có cả đoàn ngoại giao Hungary – những "bạn bè" cộng sản – cũng cử người lên phòng tác chiến CIA cầu cứu để được di tản. CIA đã phải điều người đến giải cứu họ – những kẻ trước đó đã đánh cắp tin tức của VNCH cho Bắc Việt. Chúng tôi đã phải cứu họ khỏi chính "đồng chí" của họ.

Các nhà ngoại giao Bắc Việt cũng đã có mặt ở Tân Sơn Nhứt từ sau hiệp định ngừng bắn và vào ngày đó, họ phải trốn trong mương để tránh bị pháo kích.

Tất cả là một cơn hỗn loạn điên rồ.

Và tôi đã kiệt sức. Tôi không ngủ suốt ba tuần liền. Nói đúng ra thì tôi chỉ còn cử động cơ thể bằng ý chí. Có lúc, mọi người bắt đầu xếp hàng dài trong hành lang của tòa đại sứ. Hệ thống điều hòa không khí đã hỏng nên ngột ngạt khủng khiếp.

Nhiệt độ lúc đó khoảng 40 độ C. Thang máy đã ngừng hoạt động nên người Việt Nam lẫn người Mỹ phải chen chúc nhau đi trên cầu thang bộ để đến được sân thượng.

Các lính Thủy quân lục chiến Mỹ thì cố gắng kiểm soát đám đông trong đại sứ quán.

Khung cảnh thật siêu thực, hỗn loạn hoàn toàn.

Lúc đó trong đầu tôi chợt nghĩ, lỡ có ai cầm theo một quả lựu đạn thì sao? Và đúng như vậy, một quả lựu đạn đã phát nổ bên kia đường đối diện đại sứ quán, giết chết nhiều người.

Ảnh trái: Nhân viên Mỹ và người phụ thuộc cùng người dân miền Nam Việt Nam tụ tập bên trong khuôn viên Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn khi trực thăng đưa những nhóm nhỏ lên tàu thủy ở ngoài khơi một ngày trước khi Sài Gòn rơi vào tay Bắc Việt.  Ảnh phải: Thủy quân lục chiến Mỹ đuổi hai người đàn ông Việt Nam đang cố trèo qua hàng rào dây kẽm gai để vào Đại sứ quán Mỹ trong những giây phút cuối cùng của cuộc chiến.

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Ảnh trái: Nhân viên Mỹ và người phụ thuộc cùng người dân miền Nam Việt Nam tụ tập bên trong khuôn viên Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn khi trực thăng đưa những nhóm nhỏ lên tàu thủy ở ngoài khơi một ngày trước khi Sài Gòn rơi vào tay Bắc Việt.Ảnh phải: Thủy quân lục chiến Mỹ đuổi hai người đàn ông Việt Nam đang cố trèo qua hàng rào dây kẽm gai để vào Đại sứ quán Mỹ trong những giây phút cuối cùng của cuộc chiến.

'Người Mỹ sẽ rời đi'

BBC: Được biết ông là một trong những đặc vụ CIA cuối cùng rời Sài Gòn? Ông đã rời đi bằng cách nào?

Frank Snepp: Sáng hôm đó, chúng tôi nhận được hai bức điện tối quan trọng từ Washington. Kissinger thông báo rằng 50 người trong chúng tôi sẽ phải ở lại để duy trì hoạt động của đại sứ quán sau khi cộng sản tiếp quản Sài Gòn. Ông ấy nói như thể cộng sản đã đồng ý rồi vậy trong khi trên thực tế họ không cho thương lượng, đàm phán gì cả.

Nhưng dù sao thì tôi được chỉ định là một trong số 50 người đó, nên tôi phải bắt tay vào tiêu hủy những tài liệu tôi còn giữ vì văn phòng của tôi là nơi duy nhất lúc đó ở Sài Gòn vẫn còn xử lý các thông tin tình báo.

Tôi đã tưởng mình sẽ nán lại lâu hơn. Nhưng đầu giờ chiều, tôi nhận được tin Kissinger đã lệnh cho tất cả người Mỹ phải rời đi.

Sáng hôm đó, tôi nhận được một tin nhắn thông báo đây là tin tức được chặn thu từ liên lạc của phía cộng sản với nội dung cơ bản là: nếu đến 6 giờ chiều mà người Mỹ chưa rút hết, cộng sản sẽ pháo kích thẳng vào trung tâm Sài Gòn, bao gồm cả đại sứ quán.

Khi đọc được bức điện đó, tôi hiểu ngay ý nghĩa của nó. Chúng tôi sẽ bị tiêu diệt, san bằng. Tôi vội vã chạy đến văn phòng trưởng trạm CIA và đại sứ để hỏi: "Giờ ta phải làm gì?"

Tôi cũng lập tức gửi thông báo cho Tổng thống Dương Văn Minh, yêu cầu ông báo với phía cộng sản rằng Mỹ sẽ rút đi, chắc chắn là sẽ rút hết.

Nếu thông điệp đó không được chuyển tới, cộng sản có lẽ đã khai hỏa vào trung tâm Sài Gòn.

Và khi đồng hồ gần đến 6 giờ, tôi đội mũ bảo hiểm vào vì không biết cộng sản đã nhận được tin nhắn chưa. Tôi đứng chờ và đúng 6 giờ, có một tiếng nổ lớn vang lên từ phía bên kia đường đối diện đại sứ quán.

Tôi nghĩ: "Thế là xong đời, chúng ta sẽ bị pháo kích."

Nhưng hóa ra chỉ là tiếng chiếc xe hơi bị nổ tung. Cho đến giờ, tôi vẫn không biết chuyện gì thực sự đã xảy ra. Cộng sản đã không pháo kích Sài Gòn.

Có lẽ họ đã nhận được thông điệp, biết chắc người Mỹ cuối cùng cũng rút đi.

Kissinger còn cho gửi thêm điện nhấn mạnh lại rằng: Người Mỹ sẽ rời đi.

Đại sứ Martin đã thề ông sẽ ở lại cho đến khi người Việt cuối cùng rời đi.

Khoảng 9 giờ 30 tối, trưởng trạm CIA thông báo cho tôi rằng tôi phải rút đi cùng với nhóm 17 sĩ quan CIA cuối cùng.

Trạm trưởng CIA Polgar quyết định ở lại để rời đi cùng Đại sứ Graham Martin, tôi nói mình cũng muốn ở lại nhưng Polgar nói đại ý là: "Frank, cậu phải đi. Trong đầu cậu có quá nhiều bí mật. Cậu không thể để bị bắt."

Dĩ nhiên ông ấy cũng có những bí mật, nhưng ông ấy có quyền miễn trừ ngoại giao, còn tôi thì không. Thế nên tôi rời đi cùng nhóm cuối cùng của các điệp vụ CIA.

Chụp lại video,Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?

'Mũi súng chĩa về người Việt Nam'

Khi chúng tôi leo lên chiếc trực thăng trên nóc tòa đại sứ, tôi nhìn xuống mép tòa nhà và thấy hàng ngàn người đang chờ trong sân và xa hơn nữa, bên ngoài bức tường, nhiều người la hét, vẫy tay, tuyệt vọng mong được vào bên trong.

Chiếc trực thăng từ từ rời khỏi nóc đại sứ quán, nghiêng ngả rồi bay chệch sang một bên. Khi đó, tôi nhìn ra rìa đô thành Sài Gòn, thấy rõ ánh đèn pha của quân đội Bắc Việt - 140.000 lính Bắc Việt đang tiến vào thành phố - đúng như dự đoán của Võ Văn Ba, điệp viên của chúng tôi.

Trực thăng tiếp tục lấy độ cao, hướng về căn cứ không quân Biên Hòa. Trên trời có những vụ nổ như những quả bom nguyên tử nhỏ rạch ngang dọc màn đêm. Quân Giải phóng đã pháo kích sân bay và làm nổ tung kho đạn.

Chiếc trực thăng bay xa dần, tiến về phía bờ biển. Chúng tôi bắt đầu hứng chịu hỏa lực từ dưới đất. Tôi thậm chí còn thấy đạn vạch đường lao qua cửa sổ đối diện chỗ tôi ngồi, dường như tạo thành một hình chữ thập hoàn hảo. Kẻ địch đã khóa mục tiêu vào chúng tôi và đang nổ súng.

Một chiếc máy bay C-130 của Không quân miền Nam Việt Nam bốc cháy trên đường băng sau khi trúng rocket của quân đội Bắc Việt trong quá trình di tản Sài Gòn, ngày 29/4/1975. Ảnh của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, hiện nằm trong bộ sưu tập của Cục Lưu trữ Quốc gia

Nguồn hình ảnh,Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ

Chụp lại hình ảnh,Một chiếc máy bay C-130 của Không quân miền Nam Việt Nam bốc cháy trên đường băng sau khi trúng rocket của quân đội Bắc Việt trong quá trình di tản Sài Gòn, ngày 29/4/1975. Ảnh của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, hiện nằm trong bộ sưu tập của Cục Lưu trữ Quốc gia.

Các phi công trực thăng lập tức điều khiển máy bay lách đi một cách tuyệt vọng để tăng độ cao. Cuối cùng, chúng tôi đã né được làn đạn, bay thẳng tới chiếc USS Denver, một tàu đổ bộ trực thăng thuộc Hạm đội Bảy được triển khai ở Biển Đông để phục vụ chiến dịch di tản.

Khi chúng tôi hạ cánh xuống boong tàu, ánh đèn của con tàu đóng lại quanh chúng tôi, giống như những cánh hoa khép lại.

Tôi kiệt sức đến mức đổ nhào khỏi trực thăng, gần như không đứng dậy nổi. Sau đó, tôi vào phòng liên lạc của con tàu để theo dõi phần còn lại của cuộc di tản.

Đại sứ và trưởng trạm CIA đã rời khỏi Sài Gòn lúc khoảng 6 giờ sáng hôm sau.

Những lính Thủy quân lục chiến còn lại đảm trách an ninh cũng bắt đầu rút dần vào trong tòa nhà.

Mãi sau này, tôi nghe một người phụ nữ Việt Nam khá nổi tiếng trong cộng đồng người Việt ở Úc kể lại rằng vào buổi chiều tối ngày 29/4, cô lúc đó tầm 5 tuổi đứng trong sân tòa đại sứ và chứng kiến cảnh những lính Thủy quân lục chiến Mỹ cuối cùng rời đi với súng chĩa thẳng những người Việt Nam đang trong sân.

Đó là ký ức không bao giờ phai mờ trong tâm trí cô về ngày cuối cùng ấy:

Những người Mỹ cuối cùng rời đi với họng súng chĩa thẳng vào cô.

Do sai lầm từ Washington, những lính Thủy quân lục chiến này đã bị kẹt lại trên mái tòa đại sứ cho đến tận lúc trời sáng, rồi cuối cùng mới được giải cứu.

Và như vậy, cuộc di tản kết thúc, trong vô vàn đau đớn.

BBC: Xin cảm ơn ông.

Frank Snepp
Chụp lại hình ảnh,Frank Snepp trong cuộc phỏng vấn vào ngày 25/4 với BBC

Kết thúc buổi trò chuyện, Frank Snepp nói rằng ông không cần những đợt kỷ niệm 10, 20 hay 50 năm để nói về Chiến tranh Việt Nam vì những bóng ma của quá khứ không ngừng ám ảnh ông, kể từ khi ông rời đi trên chiếc trực thăng cất cánh khỏi nóc đại sứ quán vào ngày 29/4/1975.

Nhà phân tích chiến lược của CIA, nay đã 81 tuổi, nói với BBC rằng có rất nhiều khoảnh khắc trong quá khứ trở về khiến ông gục ngã và bật khóc.

"Nhưng tôi biết điều đó là ích kỷ bởi lẽ người Việt Nam - ở cả hai phía - đã phải chịu đựng những mất mát khủng khiếp, phải trả cái giá quá đắt cho cuộc chiến.

"Điều tôi có thể làm là luôn cố gắng nhớ lại mọi chuyện một cách trung thực nhất có thể và không bao giờ quên những gì tôi chịu đựng chẳng là gì so với những gì người Việt Nam từ cả hai phía, cũng như những gì lính Mỹ đã trải qua trong cuộc chiến.

"Chính họ mới là những người chúng ta nên nhớ đến. Còn ký ức của tôi chỉ là những dòng ghi chú bên lề," ông Snepp nói.

Cái chết không thể tránh khỏi của Việt Nam Cộng hòa, tại sao?

Quân Việt Nam Cộng hòa cố thủ ở cầu Tân Cảng (cầu Sài Gòn) trước ngày Sài Gòn thất thủ 30/4/1975.

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Quân Việt Nam Cộng hòa cố thủ ở cầu Tân Cảng (cầu Sài Gòn) trước ngày Sài Gòn thất thủ 30/4/1975.
  • Tác giả,Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng
  • Vai trò,Gửi cho BBC từ Virginia, Hoa Kỳ

Là thành viên nội các của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng đã chứng kiến nhiều chuyển động quan trọng của Sài Gòn trước ngày 30/4.

Những ngày cuối cùng trước khi Sài Gòn thất thủ đã được ghi lại bằng hai cuộc họp tối mật ở cấp cao nhất, cách nhau đúng sáu ngày – một tại Dinh Độc lập, một tại chiến khu của Quân ủy miền Nam.

Hai cuộc họp này, với nội dung tương phản hoàn toàn, đã phản ảnh sự bất cân xứng về tiềm lực quân sự và hậu cần vào thời điểm định mệnh.

Ngày 1/4/1975 – Cuộc họp tại Dinh Độc lập

Chỉ hai ngày sau khi mất Đà Nẵng (29/3/1975), Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với các tướng lĩnh cấp cao nhất, gồm Đại tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham mưu trưởng), Trung tướng Đặng Văn Quang (Cố vấn Quân sự), Trung tướng Đồng Văn Khuyên (Chỉ huy Tiếp vận). Mục tiêu buổi họp là để bàn cách tái tổ chức lực lượng: chọn một số đơn vị Địa phương quân để lập thành hai sư đoàn bộ binh nhằm cầm cự được lâu hơn, giúp có được một cái thế để điều đình.

Tuy là một cuộc họp về quân sự, chúng tôi cũng được mời tham dự với tư cách tổng trưởng kế hoạch và là người điều phối viện trợ về mặt vĩ mô.

Sau phần trình bày về tình hình chiến sự, Tổng thống Thiệu quay sang hỏi trực tiếp Đại tướng Viên:

"Hiện giờ này, đạn dược thực sự còn bao nhiêu?"

Câu trả lời khiến cả phòng họp chìm trong im lặng:

"Thưa Tổng thống, đạn trong cả bốn kho dự trữ chỉ còn đủ cho 14 đến 20 ngày."

Tôi nhìn thấy nỗi buồn man mác, sự chua cay, xót xa trong ánh mắt người lãnh đạo miền Nam. Không còn gì rõ ràng hơn để báo hiệu một thực tế phũ phàng: cuộc chiến đã gần đến hồi kết và quân đội miền Nam hoàn toàn cạn kiệt phương tiện để chiến đấu.

Trực thăng Thủy quân lục chiến Mỹ sơ tán người Mỹ và người Việt trước ngày Sài Gòn thất thủ, bên dưới là các binh sĩ VNCH.

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Trực thăng Thủy quân lục chiến Mỹ sơ tán người Mỹ và người Việt trước ngày Sài Gòn thất thủ, bên dưới là các binh sĩ VNCH.

Ngày 7/4/1975 – Cuộc họp tại chiến khu Quân ủy miền Nam

Chỉ sáu ngày sau, phía Bắc Việt cũng có một cuộc họp ở chiến khu Quân ủy miền Nam để thẩm định tình hình đạn dược trước giai đoạn cuối của chiến dịch tổng tấn công. Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tư lệnh chiến trường, ghi lại trong hồi ký ký Đại thắng Mùa xuân (trang 184-185):

"Khi bàn đến vấn đề bảo đảm hậu cần, đồng chí Phạm Hùng (Chính ủy Chiến dịch) hỏi tình hình đạn dược của ta chuẩn bị đến đâu rồi, đồng chí Đinh Đức Thiện (Phó tư lệnh, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần) đưa ra bản thống kê số đạn đã nhận được, và số đạn đang chở từ 'các nơi' đến và nói:

"Xin báo cáo với các anh là đạn của ta đủ bắn để nó sợ tới ba đời."

Cùng trong buổi họp, ông Lê Đức Thọ – người từng đại diện Bắc Việt để ký Hiệp định Paris – tỏ rõ sự phấn khởi. Ông nói:

"Chúng có 5 sư đoàn, ta có 15 sư đoàn, chưa kể các lực lượng dự bị chiến lược khác. Như vậy chỉ cho phép chúng ta đánh thắng. Đó là ý kiến của Trung ương." (trang 186) Rồi ông khích lệ các quân đoàn: "Tình hình đối với ta rất thuận lợi, khả năng rất dồi dào, ta phải nắm lấy thời cơ, làm cho nhanh, làm cho chắc."

Báo cáo về đạn dược và số quân của hai bên trong ngày tàn của cuộc chiến đã cho thấy rõ tại sao Miền Nam không thể nào tránh khỏi ngày 30/4.

Bỏ rơi thế nào để 'coi cho được'?

Có nhiều nguyên nhân – cả khách quan lẫn chủ quan – dẫn đến sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam. Nhưng thật là cần thiết để lịch sử ghi lại cho trung thực những bằng chứng chính xác về cái kết cục bi đát, bất công của VNCH, không thể để cho Henry Kissinger lấp liếm, vì ông đã lừa dối tới một nửa thế kỷ rồi – như được chứng minh trong cuốn sách Bức tử VNCH – Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm (2024).

Sau ba thập niên nghiên cứu, chúng tôi đã lần ra đầy đủ những bằng chứng về một chiến lược tinh vi mang tên "Decent Interval" của Henry Kissinger – Cố vấn An ninh Quốc gia và Ngoại trưởng Hoa Kỳ, một người tôi coi là "quan toàn quyền về ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời hai tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford".

Decent Interval – tạm dịch là "khoảng thời gian coi cho được." Mục tiêu của chiến lược này là làm sao ký kết được một hiệp định với Bắc Việt để Mỹ rút quân trong danh dự, đưa 519 tù binh về nước và giữ thể diện cho nước Mỹ – bất chấp việc phải để lại một VNCH bị bao vây, cô lập và cuối cùng là sụp đổ sau 1–2 năm.

Ông không chỉ thao túng chính sách đối ngoại của Mỹ, mà còn âm thầm thỏa thuận với Liên Xô – thông qua Đại sứ Anatoly Dobrynin – để phản bội nước Mỹ về Hiệp ước SALT (Tài giảm binh bị).

Chụp lại video,Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?

Tại sao phải bỏ rơi VNCH?

Câu trả lời nằm trong một đoạn văn thẳng thắn đến lạnh người trong hồi ký White House Years (Những năm tháng Nhà Trắng). Sở dĩ Kissinger muốn bỏ rơi miền Nam (và Campuchia, Lào) vì ông cho rằng Đông Dương đã cản trở chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, theo đó Trung Quốc mới là quan trọng, còn Đông Dương thì chỉ là một khu vực nhỏ bé, cho nên cần phải đẩy nó về đúng cái khuôn khổ nhỏ bé của nó.

Ở trang 1049 trong hồi ký, Kissinger viết về việc mở cửa Bắc Kinh:

"Chúng ta cần Trung Quốc để tăng cường tính linh hoạt trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ... Sáng kiến về (mở cửa) Trung Quốc còn khôi phục được quan điểm của chúng ta về chính sách của quốc gia.

"Sáng kiến này thu nhỏ Đông Dương lại, để nó quay về đúng cái quy mô của nó – quy mô của một bán đảo nhỏ bé trên một lục địa to lớn."

Từ cái nhìn ấy, Đông Dương không còn là một tuyến đầu chống cộng, mà là một chướng ngại cần dẹp bỏ để đạt được những thắng lợi chiến lược lớn hơn. Vận mệnh của cả một quốc gia, hàng triệu con người, đã bị ông ta xếp vào vai trò "vật tế thần" cho chính sách toàn cầu mới theo quan niện của mình.

Mùa hè năm 1972, khi nước Mỹ đang chuẩn bị bước vào chiến dịch tranh cử tổng thống, Đảng Cộng Hòa dự kiến tổ chức đại hội tại Miami, Florida để đề cử ông Nixon tái tranh cử. Một cuộc họp kín giữa Nixon và Kissinger tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 3/8/1972 đã mang ý nghĩa quyết định.

Nội dung cuộc họp – còn được ghi lại trong băng ghi âm chính thức – cho thấy toàn bộ tinh thần của chiến lược "Decent Interval". Nixon lo ngại rằng nếu để mất miền Nam sau khi ký hiệp định thì uy tín của Hoa Kỳ sẽ bị sụp đổ. Nhưng Kissinger đã trấn an ông bằng một luận điệu đầy tính toán:

"Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ mà Bắc Việt nuốt trọn miền Nam thì chúng ta vẫn có thể duy trì một chính sách ngoại giao khả tín, miễn sao nó được coi như là hậu quả của sự bất tài của miền Nam."

Rồi ông kết luận một cách tàn nhẫn:

"Vậy chúng ta cần tìm ra một công thức để giữ cho tình hình yên ổn trong một hay hai năm. Sau đó, thưa Tổng thống, Việt Nam sẽ trở thành một vũng nước đọng. Nếu chúng ta kết thúc chuyện này, chẳng hạn vào tháng 10, thì đến tháng 1 năm 1974 sẽ chẳng còn ai quan tâm quái gì nữa (no o­ne will give a damn)."

Lời nói ấy – "no o­ne will give a damn" – không chỉ là sự lạnh lùng vô cảm, mà còn là lời phán xét lịch sử. Nó cho thấy, đối với Kissinger, toàn bộ cuộc chiến tranh, máu xương và hy sinh của hàng triệu người Việt Nam chỉ là một dấu chấm nhỏ không đáng kể trong sách lược chính trị toàn cầu mà ông đang viết.

Theo nhà nghiên cứu Jeffrey Kimball, Kissinger đã thực sự thuyết phục được Tổng thống Nixon vào ngày 28/9/1972 rằng những gì ông đang thương lượng với Hà Nội không phải là một hành động "bán đứng đồng minh" mà là một bước đi cần thiết để chấm dứt chiến tranh và bảo vệ lợi ích lớn hơn của Hoa Kỳ.

Trớ trêu thay, ngày 28/9 ấy lại gần kề thời điểm quân lực VNCH tái chiếm Cổ thành Quảng Trị – một chiến thắng mang tính biểu tượng cao độ. Khắp miền Nam lúc đó vang lên bài hát:

"Cờ bay, cờ bay, oai hùng trên thành phố thân yêu…"

Khi VNCH lấy lại thế chủ động trong chiến sự, thì ở Washington, định mệnh của miền Nam lại đang bị định đoạt trong một căn phòng đóng kín – bởi những người từng hứa hẹn sẽ sát cánh đến cùng.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (phải) và Henry Kissinger, cố vấn của Tổng thống Richard Nixon, trong một cuộc gặp vào năm 1972 tại Dinh Độc lập.

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (phải) và Henry Kissinger, cố vấn của Tổng thống Richard Nixon, trong một cuộc gặp vào năm 1972 tại Dinh Độc lập.

Một bức thư và sự im lặng

Ngay sau khi được Kissinger thuyết phục, Tổng thống Nixon đã viết thư cho Tổng thống Thiệu vào ngày 16/10/1972. Cuối thư, ông còn viết tay để khẳng định về Hiệp định Paris:

"Tôi tin chắc rằng đây là giải pháp tốt nhất có thể đạt được và phù hợp với điều kiện tuyệt đối của tôi là Việt Nam Cộng hòa phải được tồn tại như một quốc gia tự do."

Nixon thậm chí còn gạch dưới chữ "absolute" (tuyệt đối) trong thư, như muốn trấn an đồng minh rằng ông không lùi bước.

Như lịch sử đã diễn ra, Hiệp định Paris được ký ngày 27/1/1973 không phải là nền tảng để cho Việt Nam Cộng hòa được tồn tại như một quốc gia tự do.

Quốc hội Mỹ bị đánh lừa

Do tin rằng chiến tranh đã kết thúc và hòa bình được vãn hồi, Quốc hội Hoa Kỳ bắt đầu cắt giảm mạnh viện trợ quân sự cho VNCH. Trong khi đó, khối xã hội chủ nghĩa – đặc biệt là Liên Xô – lại tăng viện gấp bốn lần cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH). Chênh lệch này khiến VNCH nhanh chóng rơi vào tình trạng kiệt quệ cả về vũ khí, tiếp liệu, lẫn phương tiện truyền thông và y tế (kể cả băng cứu thương).

Trong tay Tổng thống Thiệu chỉ còn một vũ khí duy nhất: đó là những lá thư với chữ ký của Tổng thống Nixon cam kết rằng Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ và "bảo vệ hòa bình bằng tất cả sức mạnh của Hoa Kỳ nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp định."

Tuy nhiên, khi Tổng thống Nixon phải từ chức do vụ Watergate, những lá thư này không bao giờ được chuyển đến người kế nhiệm là Tổng thống Gerald Ford. Henry Kissinger – người giữ vai trò trung gian – đã cố tình che giấu ông Ford và che giấu luôn cả Quốc hội Mỹ về diễn tiến của "hòa bình" và giấu nhẹm hồ sơ Nixon – Thiệu.

Bằng cách đó, ông đã tước nốt lá chắn cuối cùng còn lại trong tay VNCH.

Ngày 30/4, khi Sài Gòn thất thủ thì ở bên kia bán cầu thì ngay tại thủ đô Washington, một "mặt trận sự thật" khác được mở ra.

Chúng tôi, những người từng chứng kiến toàn bộ quá trình ngoại giao từ bên trong, đã quyết định công bố những bằng chứng về chiến lược "Decent Interval" và các cam kết mật giữa Nixon và Thiệu – những tài liệu bị Kissinger cố tình che giấu đi. Tất cả được đưa ra công luận đúng vào lúc thế giới còn đang sửng sốt trước cảnh tháo chạy ở Sài Gòn.

Sự thật ấy như một gáo nước lạnh dội vào Quốc hội Hoa Kỳ.

Những vị dân cử trước đây từng biểu quyết cắt viện trợ, giờ đây mới nhận ra rằng họ đã bị đánh lừa. Không có hòa bình, cũng chẳng có danh dự. Chỉ có sự phản bội, sự thao túng và những quyết định được đưa ra trong bóng tối.

Ban đầu, Quốc hội Mỹ gần như dửng dưng trước làn sóng người tị nạn Việt Nam tràn sang các trại tạm cư ở Guam, Wake, Camp Pendleton… Nhưng sau khi các tài liệu được công bố, và sau nhiều cuộc điều trần gay gắt, thái độ của họ đã thay đổi hoàn toàn.

Từ chỗ phản đối di tản, Quốc hội bắt đầu thông cảm và chuyển sang tiếp nhận đoàn người tị nạn Việt Nam. Với sự thông cảm ấy, lớp người tị nạn đầu tiên đã hoạt động để từng bước dẫn đến các chương trình Chương trình Ra đi Có trật tự (Orderly Departure Program, ODP), Chương trình Nhân đạo (Humanitarian Operation, HO), các khoản trợ giúp định cư, y tế, giáo dục…

Quốc hội cũng bắt đầu điều tra lại hồ sơ Nixon–Thiệu. Nhưng chính quyền Ford, dù bị áp lực, vẫn từ chối cung cấp tài liệu – có thể vì họ cũng bị "đặt ở ngoài cuộc".

Một đội quân bị bỏ đói trong chiến hào

Nếu có ai đó hỏi vì sao VNCH sụp đổ nhanh đến vậy trong tháng 3 và 4 năm 1975, câu trả lời không nằm ở tinh thần chiến đấu, mà nằm ở hai chữ: kiệt quệ. Sau Hiệp định Paris 1973, và nhất là từ năm 1974 trở đi, khả năng chiến đấu và hậu cần của VNCH đã rơi tự do.

Và đến giờ phút khi bi kịch "Decent Interval" hạ màn, đạn dược chỉ còn đủ cho 12 tới 20 ngày – như Đại tướng Viên báo cáo ngày 1/4/1975.

Thiếu tướng John E. Murray – Tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn (1973–1974), là chứng nhân tại chỗ – trong một báo cáo mật đã so sánh tương quan lực lượng hai bên trước khi sụp đổ:

"Trong thời cao điểm của lực lượng Hoa Kỳ ở Việt Nam, chúng ta từng có 433 tiểu đoàn tác chiến Mỹ và Đồng minh chiến đấu ở Việt Nam. Địch có 180 tiểu đoàn. Đến năm 1974, khi chúng ta rút lui, VNCH có 189 tiểu đoàn, địch tăng lên 330 tiểu đoàn.

"Lấy đi B-52, F-4, lấy đi hải pháo, lấy đi tất cả…Và ta bắt đầu yểm trợ miền Nam với 2% tổng số tiền đã dùng cho quân đội Mỹ, để đương đầu với một số địch quân nhiều hơn."

Rồi ông kết luận bằng một trích dẫn đáng suy ngẫm:

"Napoleon đã từng nói: Thượng Đế đứng về phe nào có các tiểu đoàn lớn nhất, mạnh nhất."

"Đúng như vậy. Thượng Đế đã đứng về phe cộng sản vào năm 1974; quân họ đông hơn, mạnh hơn. Và đó là lý do chúng ta đã thua chiến tranh Việt Nam."

Trên thực tế - và chúng tôi là nhân chứng - cuối cùng thì cũng chẳng có số tiền tương đương 2% , mà hầu như là con số không.

Chụp lại video,Tháng 4/1975: Tường thuật của BBC

Từ Nguyễn Văn Thiệu 1975 tới Volodymyr Zelensky 2025

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày 30/4/1975 – ngày định mệnh kết thúc một quốc gia, nhưng âm hưởng của sự kiện ấy vẫn vang vọng trong thời sự quốc tế, nhất là khi người ta chứng kiến một quốc gia khác – Ukraine – đang vật lộn để tồn tại.

Tuy cuộc chiến Việt Nam và chiến tranh Ukraine là khác hẳn nhau về bản chất lẫn hoàn cảnh lịch sử, nhưng về vấn đề viện trợ của Hoa Kỳ thì có điểm tương đồng.

Một trong những câu nói gây chấn động trong cuộc chiến Ukraine đến từ Tổng thống Volodymyr Zelensky. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Amna Nawaz trên PBS ngày 14/4/2024, ông thẳng thắn nhấn mạnh:

"Tôi có thể nói rõ ràng với bà: nếu không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ không thể chiến thắng." Có nghĩa là sẽ chiến bại.

Mới đây, ngày 14/2/2025, ông nói trên đài NBC:

"Sẽ rất, rất, rất khó khăn để Ukraine có thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ, cả hiện tại khi đất nước đang cố gắng chiến đấu và trong tương lai sau khi chiến tranh kết thúc."

Những lời này vang lên bên tai tôi như một tiếng vọng từ quá khứ.

Tháng 1/1973, ngay sau khi Kissinger trở về từ Paris với bản thỏa hiệp đình chiến trong tay, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã dành một cuộc phỏng vấn cho ký giả nổi tiếng người Ý, bà Oriana Fallaci (còn ghi lại trong cuốn sách Interview with History).

Khi được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ không còn viện trợ nữa, ông Thiệu trả lời không hề do dự:

"Nếu Mỹ bỏ rơi chúng tôi, đó sẽ là sự kết thúc. Kết thúc hoàn toàn, tuyệt đối."

Liệu ông có thể tìm được những nguồn lực nào khác?

"Làm sao chúng tôi có thể tìm được một quyền lực nào khác giống như Mỹ đã giúp chúng tôi? Có thể chúng tôi cũng tìm được một quốc gia khác sẵn sàng giúp, nhưng không quốc gia nào có nhiều phương tiện như Mỹ."

Những lời nói ấy, hơn 50 năm sau, giờ đây lại được lặp lại gần như nguyên văn – không phải bởi một nhà lãnh đạo Á Đông mà bởi một tổng thống châu Âu trong thế kỷ 21.

Chỉ cần thay cái tên "Nguyễn Văn Thiệu" bằng "Volodymyr Zelensky", thì toàn bộ tâm trạng, nỗi lo sợ, và sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ được lặp lại một cách kỳ lạ.

Nếu như "kế hoạch hòa bình" do Mỹ đưa ra tiếp tục bị bế tắc và Mỹ "bỏ đi" – vì còn những ưu tiên khác như Gaza, Iran, Trung Quốc (Biển Đông, Đài Loan), cuộc thương chiến,v.v. thì tương lai của Ukraine sẽ như thế nào?

Lặp lại lời ông Zelensky rằng "sẽ rất, rất, rất khó khăn" để Ukraine có thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ quân sự từ Mỹ - "cả bây giờ, khi chúng tôi chiến đấu, lẫn sau này khi chiến tranh kết thúc" - câu hỏi đặt ra là liệu một kết cục tương tự có đến với Ukraine?

  • Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn Khi đồng minh tháo chạy và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.


Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?
Giáo sư Stephen B. Young, tác giả cuốn sách 'Kissinger's Betrayal: How America Lost the Vietnam War' (Sự phản bội của Kissinger: Mỹ đã thua Chiến tranh Việt Nam như thế nào) cho rằng nếu không có hiệp định Paris được ký năm 1973, Hà Nội không thắng được miền Nam Việt Nam.
Theo ông, "sự phản bội" của Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Richard Nixon (và sau đó là Tổng thống Gerald Ford) từ 1969 đến 1975, Ngoại trưởng Mỹ từ năm 1973 đến 1977, là nguyên nhân chính khiến Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.

Stephen B. Young: 'Sự phản bội của Henry Kissinger là nguyên nhân chính khiến Việt Nam Cộng hòa sụp đổ'

Henry Kissinger và Stephen B. Young
Chụp lại hình ảnh,Tác giả Stephen B. Young (trái) và bìa sách 'Kissinger's Betrayal: How America Lost the Vietnam War' vừa được ấn bản
  • Tác giả,Huyền Trân
  • Vai trò,BBC News Tiếng Việt

Dường như Henry Kissinger đã làm theo câu nói nổi tiếng của sử gia Thucydides, "The strong do what they can, the weak suffer what they must", tác giả Stephen B. Young bình luận với BBC News Tiếng Việt.

'Kissinger's Betrayal: How America Lost the Vietnam War' là quyển sách mới nhất của tác giả Stephen B. Young cho thấy cách nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ, Henry Kissinger đã phản bội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) thế nào qua những thỏa thuận bí mật với Liên Xô, Bắc Việt và Trung Quốc.

Ông Henry Kissinger, 99 tuổi là Ngoại trưởng Mỹ từ năm 1973 đến 1977, và trợ lý cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon, sau đó là Tổng thống Gerald Ford trong các vấn đề an ninh quốc gia từ năm 1969 đến tháng 11/1975.

Quyển sách đề cập đến động cơ sâu xa Henry Kissinger, từ sự không tin tưởng vào một chiến thắng cho Mỹ ở Việt Nam ngay từ ban đầu, không xem Việt Nam Cộng hòa có chủ nghĩa dân tộc.

Nguyên nhân gốc rễ là từ ảnh hưởng tư tưởng của Jean Sainteny, Đặc ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ từ năm 1946 đến 1962, theo Giáo sư Stephen B. Young.

Trả lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt từ Minnesota (Hoa Kỳ) ngày 27/03, cựu phó khoa luật Đại học Harvard cho rằng nền hòa bình mang lại sau Hiệp định Paris ký ngày 27/01/1973 là "không có danh dự" như Tổng thống Nixon từng mong muốn.

Henry Kissinger

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Ông Henry Kissinger, 99 tuổi là Ngoại trưởng Mỹ từ năm 1973 đến 1977, và trợ lý cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon trong các vấn đề an ninh quốc gia từ năm 1969 đến tháng 11/1975

BBC: Ông có thể nói về quá trình viết sách 'Kissinger's Betrayal: How America Lost the Vietnam War'? Có thể nói đây là quyển sách đầu tiên về sự phản bội của Henry Kissinger đối với Việt Nam Cộng hòa?

Giáo sư Stephen B. Young: Đúng như vậy. Mọi chuyện xảy đến với tôi theo một cách tình cờ.

Tôi đã tìm kiếm tài liệu viết quyển sách này trong hơn 40 năm qua. Nhiều câu chuyện, mà tôi có thể nói theo Tiếng Việt, phải gọi là "phước của Trời".

Tôi có quen biết cựu Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker trong quãng thời gian tôi làm việc tại đó. Bunker về hưu năm 1980, và ông ấy mời tôi cùng gia đình đến thăm quê ông ấy ở Vermont.

Khi đó, Bunker đã kể rất nhiều câu chuyện thú vị về Việt Nam như về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu... Khi đó tôi đặt câu hỏi cho ông ấy "Ngài Đại sứ, tôi muốn viết sách, người dân Mỹ cần phải biết những câu chuyện này. Đây là những câu chuyện hay, rất thú vị mà lại không ai biết về chúng." Và rồi ông ấy đồng ý.

Lá thư Henry Kissinger gửi cho Ellsworth Bunker vào ngày 25/05/1971

Nguồn hình ảnh,Stephen B. Young

Chụp lại hình ảnh,Lá thư Henry Kissinger gửi cho Ellsworth Bunker vào ngày 25/05/1971 (phải), có đoạn "On your point VI we will say that peoples of Indochina should discuss this question among themselves but we not set date." Và một biên bản từ Nhà Trắng vào ngày 25/05/1971, Sainteny và vợ ăn trưa với Henry Kissinger, và Sainteny truyền đi thông điệp từ Hà Nội (trái)

Khi cùng làm việc với nhau, tôi đã có điều kiện tiếp cận với những tài liệu mật của Bunker ở Bộ Ngoại giao Mỹ. Khi nhìn vào một tủ hồ sơ, tôi phát hiện những lá thư mật giữa Ellsworth Bunker và Henry Kissinger.

Và tôi thấy thông điệp rất sốc của Kissinger vào ngày 25/05/1971, mang nội dung nói một cách gián tiếp [indirectly] với Bunker rằng Mỹ sẽ để Hà Nội duy trì hiện diện quân sự ở miền Nam Việt Nam sau hiệp định hòa bình Paris. Nói một cách khác, Kissinger sẽ bỏ rơi những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc. Nhưng tôi chỉ có một tài liệu đó.

Vào năm 1971, Đại sứ Bunker không hiểu những gì Kissinger nói, ông ấy vẫn còn nghĩ rằng Kissinger vẫn còn ủng hộ người theo chủ nghĩa dân tộc ở Sài Gòn và do đó, Bunker đã không làm gì.

Và khi tôi đưa bức thư đó cho Bunker xem thì ông ấy rất thất vọng vì nghĩ rằng lẽ ra mình đã phải nhận ra ngay vấn đề vào thời điểm đó.

Chính câu chuyện này đã cho tôi một chỉ dấu cho thấy Kissinger đã có một kế hoạch cá nhân cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Và tôi đã dành rất nhiều năm để xem thêm tài liệu khác để viết nên quyển sách này.

Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Ông Ellsworth Bunker là Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa nhiệm kỳ 1967-1973

Tôi cũng tiếp cận Tổng thống Nixon. Kết bạn với Nixon vốn là chuyện không dễ dàng vì tôi phải mất đến 4 đến 5 năm. Lần đầu tôi gặp Nixon là vào khoảng năm 1981. Vào khoảng năm 1989, khi nghĩ ông ấy đã tin tưởng mình, tôi hỏi ông ấy ở New Jersey, "Có phải ông đã ủy quyền cho Henry Kissinger bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa hay không?", và khi đó ông ấy bị sốc, mặt trắng bệch, ông ấy nói không nên lời. Ông ấy nói mình không biết Kissinger thật sự làm gì vào năm 1971.

Một yếu tố khác là từ quyển sách "Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ - Kissinger Tại Paris" của tác giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, những nhà ngoại giao cùng với ông Lê Đức Thọ trong quá trình đàm phán Hiệp định Paris. Trong quyển sách đó, hai tác giả viết rằng vào cuối tháng Giêng năm 1971, Đại sứ Liên Xô tại Hà Nội có cuộc họp với Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Khi đó Đại sứ Liên Xô cho biết Kissinger vừa mới nói với Đại sứ Liên Xô tại Washington, Anatoly Dobrynin là nước Mỹ sẽ rời khỏi Việt Nam và không bao giờ trở lại, Mỹ sẽ không yêu cầu Hà Nội rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Câu chuyện này trùng khớp với tài liệu mà tôi có được từ tập hồ sơ mật của Bunker.

Rồi sau đó tôi nhớ lại trong quyển tự truyện của Kissinger, ông ấy nêu vào ngày 09/01/1971 đã có cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô, Dobrynin ở Washington, và chấm hết.

Đó là tất cả những gì Kissinger viết. Như vậy chúng ta có thể thấy, chi tiết gặp Đại sứ Liên Xô tại Washington từ hai tác giả Việt Nam và tự truyện của Kissinger có sự liên quan với nhau.

Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin tại Nhà Trắng vào ngày 26/12/1973

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin tại Nhà Trắng vào ngày 26/12/1973

Cách đây hai năm, tôi hỏi một người bạn của tôi ở Moscow, một giáo sư người Nga chuyên về lịch sử Liên Xô gửi cho tôi chi tiết về thông điệp mà Đại sứ Dobrynin gửi cho Moscow về cuộc gặp giữa ông ấy với Kissinger hay không nhưng ông ấy không giúp được.

Nhưng một người bạn khác của tôi từ Đại học Harvard, chuyên nghiên cứu về lịch sử Liên Xô và Nga thì cho biết biên bản cuộc họp ngày 09/01/1971 đó đã được dịch sang Tiếng Anh và giúp tôi có được bản sao biên bản đó, dài khoảng sáu trang, năm trang về chạy đua vũ trang, vũ khí hạt nhân... trang thứ sáu là về Việt Nam.

Và trong biên bản này thì Kissinger đã đề xuất Hà Nội có thể để binh sĩ ở lại miền Nam Việt Nam, lính Mỹ có thể về nhà, chuyện gì xảy ra thì cứ để xảy ra.

Một câu chuyện thứ ba là khi tôi xem tài liệu tại thư Viện Gerald R. Ford ở Michigan, người thủ thư mang cho tôi hai hộp hồ sơ và nói 'Steve à, tôi nghĩ ông nên xem chúng".

Và tập hồ sơ có tên là 'Mr. S file' và tôi thấy thật thú vị. Khi đó tôi thấy một cái tên Pháp, Jean Sainteny, một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam vì là người chọn Hồ Chí Minh vào tháng 03/1946. Và tôi ngỡ ngàng khi đây là hồ sơ về những cuộc trao đổi giữa Henry Kissinger là Jean Sainteny.

Và tôi thấy một biên bản từ Nhà Trắng vào ngày 25/05/1971, Sainteny và vợ ăn trưa với Henry Kissinger, và Sainteny truyền đi thông điệp từ Hà Nội.

Sainteny nói với Kissinger rằng nếu Mỹ đem quân về nước, để Bắc Việt duy trì binh lính tại miền Nam Việt Nam, Hà Nội sẽ ký hiệp ước hòa bình, trao trả tù binh chiến tranh và để Việt Nam Cộng hòa sống thêm hai, ba năm nữa.

Cùng ngày này, 25/05/1971, Kissinger gửi thư đến Bunker, có thể là sau cuộc gặp với Jean Sainteny với nội dung không nói thẳng là Mỹ sẽ không yêu cầu Hà Nội rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.

Tổng thống Mỹ Richard Nixon (trái) trong cuộc gặp với Cố vấn An ninh Quốc gia, Henry Kissinger (phải) tại Nhà Trắng, vào ngày 16/09/1972

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Tổng thống Mỹ Richard Nixon (trái) trong cuộc gặp với Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger (phải) tại Nhà Trắng vào ngày 16/09/1972

BBC: Như vậy, Tổng thống Richard Nixon khi đó thật sự đã không biết gì về kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa của Henry Kissinger?

Giáo sư Stephen B. Young: Chúng ta cần phải chính xác ở điểm này. Điều mà Tổng thống Nixon không biết là Kissinger đã đưa ra đề xuất này cho Cộng sản Bắc Việt vào năm 1971.

Trong khoảng năm 1971 và 1972 đã diễn ra những cuộc thương thảo bí mật giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Vào tháng 10/1972, Kissinger đã có một bản thảo về thỏa thuận, không bao gồm điều khoản Hà Nội phải rút quân khỏi Việt Nam Cộng hòa. Rồi sau đó Kissinger đến Sài Gòn và đưa thỏa thuận này cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Thiệu khi đó bị sốc, rất giận dữ, đặt câu hỏi làm sao Mỹ có thể để Bắc Việt để khoảng 250 ngàn binh sĩ ở miền Nam Việt Nam.

Cũng vào năm 1972, sau cuộc phản công 'Mùa hè đỏ lửa' và cuối cùng Cộng sản thất bại, Hà Nội dù đã huy động 13-14 sư đoàn ở miền Nam Việt Nam để chống lại những người theo chủ nghĩa dân tộc sau ba cuộc chiến tại Quảng Trị, Kon Tum (Pleiku), An Lộc.

Khi đó Nguyễn Văn Thiệu cảm thấy được tiếp thêm sức mạnh và giờ thì Kissinger nói để quân Bắc Việt ở miền Nam Việt Nam sau tất cả sự hy sinh của miền Nam Việt Nam.

Ông Thiệu đã bác bỏ thỏa thuận và vào thời điểm đó, Nixon biết Kissinger đã làm gì nhưng lại nghĩ chuyện đó xảy ra vào tháng 10/1972. Sau khi Nixon quyết định ném bom Hà Nội, Hải Phòng, Lê Đức Thọ đưa ra thỏa hiệp.

Vào tháng 01/1973, Hiệp định Paris được ký kết, theo đó Hà Nội không phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Nhìn lại sự việc, Lê Đức Thọ từng nói đó là điều khoản vô cùng quan trọng cho Hà Nội bởi vì Bắc Việt không quan tâm đến hòa bình vì chỉ muốn chiếm Việt Nam Cộng hòa.

Vì khi Mỹ rút quân về nước, Bắc Việt rõ ràng có thể đưa thêm quân, nhận thêm xe tăng từ Liên Xô... và sau hai năm vào năm 1975, đúng như những gì Hà Nội đã nói với Henry Kissinger, Lê Duẩn đưa ra lệnh tiến hành cuộc tổng tiến công.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp chính trị gia người Pháp Jean Sainteny, Đặc ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ vào tháng 12/1946

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp chính trị gia người Pháp Jean Sainteny, Cao ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ vào năm 1946

BBC: Trong sách, ông viết rằng nguyên nhân sâu xa cho việc Henry Kissinger âm thầm lên kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa vì ngay từ đầu không tin Mỹ có thể chiến thắng trong cuộc chiến và cả từ định kiến bị ảnh hưởng từ chính trị gia người Pháp Jean Sainteny?

Giáo sư Stephen B. Young: Trước hết chúng ta hãy nói về mối quan hệ giữa Jean Sainteny và Henry Kissinger. Người vợ thứ hai của Jean Sainteny, bà Claude Dulong-Sainteny, từng tham gia seminar của Kissinger tại Đại học Harvard khi Kissinger đang theo học tiến sĩ vào 1953.

Và thông qua bà ấy, Kissinger đã quen biết Jean Sainteny.

Vào năm 1966, khi Kissinger tìm cách đạt được thỏa thuận hòa bình giữa Tổng thống Lyndon Johnson với Hà Nội, ông ta đã gặp Sainteny ở Paris. Sự thật này đã được lưu trong các hồ sơ.

Và cũng theo hồi ký của Henry Kissinger, ông ta đã lắng nghe Jean Sainteny về Việt Nam và ông ấy viết Sainteny chỉ nói với mình hai điều.

Thứ nhất, những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam Cộng hòa là vô giá trị, không thể tạo dựng quốc gia, tham nhũng, không phải là người tốt...

Thứ hai, người Mỹ không bao giờ có thể chiến thắng trong cuộc chiến này khi hậu thuẫn cho những người ở Việt Nam Cộng hòa, vô tổ chức, vô kỷ luật, tham nhũng, lười chiến đấu... Và tôi suy đoán là còn có một ý thứ ba, đó là chỉ có Hồ Chí Minh là người Cộng sản, người Việt Nam tốt.

Chúng ta hãy cùng xem lại lý do tại sao Sainteny tin vào điều này.

Sainteny đã viết quyển sách "Histoire D'une Paix Manquée Indochine 1945-1947", ông ấy đã viết về người Pháp đã phạm một sai lầm thế nào khi không hậu thuẫn cho Hồ Chí Minh, xem đây ông Hồ là một người Việt Nam tốt đẹp nhất.

Một quyển sách khác được viết vào đầu những năm 1952 mang tên "Viet-Nam Sociologie D'une Guerre" của tác giả Paul Mus, có luận điểm người Việt Nam thật sự là người Trung Quốc, với cụm từ "con rồng nhỏ hơn" (smaller dragon), và nền văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, và Việt Nam không có chủ nghĩa dân tộc. Sách của Paul Mus nói giới tinh hoa cách mạng của Việt Nam chuyển từ Khổng Tử sang chủ nghĩa Marx.

Cần nói thêm chút về người vợ đầu của Jean Sainteny. Bà ấy là con gái của cựu Toàn quyền Đông Dương vào những năm 1920, cựu Thủ tướng Pháp Albert Sarraut. Chính sách của Albert Sarraut là áp dụng chương trình giáo dục của Pháp cho con cái những gia đình quan lại chuyên học tiếng Hoa. Ý tưởng của Pháp khi đó là chỉ những người được học trường Pháp mới trở thành nhà lãnh đạo tốt được.

Hầu hết giới cai trị thực dân Pháp đều không hiểu về văn hóa Việt Nam, hay nói Tiếng Việt. Không hiểu về người Việt, Jean Sainteny cho rằng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ... những người hưởng nền giáo dục của Pháp đều học được lý thuyết Marx - Lenin từ Paris.

Jean Sainteny được đưa trở lại Việt Nam vào năm 1945 để với sứ mệnh phục hồi lại sức ảnh hưởng của thực dân Pháp ở Việt Nam, Lào, Campuchia sau Thế chiến lần 2. Khi đó Jean Sainteny không có quân đội Pháp, mà phải hợp tác với lực lượng quân đội Việt Nam.

Trong quyển sách "Histoire D'une Paix Manquée Indochine 1945-1947", Jean Sainteny viết người duy nhất cùng hợp tác với ông ấy là Hồ Chí Minh. Vua Bảo Đại khi đó cũng không muốn gặp Jean Sainteny.

Câu hỏi đặt ra là tại sao Hồ Chí Minh lại muốn hợp tác với Pháp?

Một lý do là Pháp xem Hồ Chí Minh có hưởng nền giáo dục Phương Tây. Còn Hồ Chí Minh thì cần ai đó chọn ông ấy trở thành lãnh đạo và công nhận chính phủ của ông ấy.

Jean Sainteny sau đó kể câu chuyện này với Henry Kissinger. Và Kissinger thì không có người bạn Việt Nam nào, không nói Tiếng Việt, Kissinger chọn tin vào chính trị gia người Pháp hơn.

Đó là lý do tôi đưa ra lập luận Kissinger đã chọn bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa bởi vì ông ta không biết về con người, văn hóa, những điều tốt đẹp về đất nước này.

Nhà đàm phán Bắc Việt tại Hòa đàm Paris, ông Lê Đức Thọ và Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ,  Henry Kissinger

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Nhà đàm phán Bắc Việt tại Hòa đàm Paris, ông Lê Đức Thọ và Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger vào tháng 01/1973

BBC: Tổng thống Nixon từng muốn Hiệp định hòa bình Paris là "Hòa bình trong danh dự" (peace with honor). Sau tất cả những kế hoạch của Henry Kissinger, ông bình luận như thế nào về hiệp định này?

Giáo sư Stephen B. Young: Cụm từ 'Peace with honor' là của Tổng thống Nixon. Bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1968 có thể thấy rõ hai phe, một phe ủng hộ Việt Nam Cộng hòa, một phe là muốn bỏ rơi.

Nixon và phe Cộng hòa thì muốn giúp VNCH. Phe Dân chủ thì muốn bỏ rơi VNCH.

Nixon thật sự không biết làm sao, vì vậy ông ấy nghĩ ra slogan "peace with honor", có nghĩa chiến tranh sẽ kết thúc trong danh dự, nhưng điều đó có nghĩa Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa.

Sau đó vào năm 1969, với sự ảnh hưởng của Đại sứ Bunker, Tổng thống Nixon tiến hành Việt Nam hóa chiến tranh, có nghĩa quân đội Mỹ rút đi còn quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ ngày càng mạnh lên.

Sự phản bội của Kissinger nằm ở chỗ đã mang đến "một nền hòa bình không có danh dự".

Kissinger mang lại hòa bình theo Hiệp định Paris, Việt Nam Cộng hòa được độc lập, tự do, nhưng tất cả chỉ là trên giấy tờ.

Hà Nội được duy trì binh lính ở miền Nam Việt Nam. Và hai năm sau đó, Hà Nội đã vi phạm hiệp định hòa bình này và Kissinger thừa biết là Bắc Việt sẽ thực hiện điều đó.

Đó là lý do tại sao lại là "nền hòa bình không có danh dự", bởi vì hiệp ước hòa bình lại không mang lại hòa bình thật sự, chỉ là một 'sự giả tưởng về hòa bình' [fiction of peace].

BBC: Ông đánh giá thế nào về tầm quan trọng của sự phản bội của Henry Kissinger trong sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa? Như vậy có thể nói, Việt Nam Cộng hòa đã không tự bại trận như nhiều phân tích và bình luận trước đây?

Giáo sư Stephen B. Young: Các nhân tố quan trọng khác không thể không nhắc đến đó chính là phong trào phản chiến tranh Việt Nam tại Mỹ. Thế nhưng sự phản bội của Henry Kissinger là nguyên nhân chính khiến Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.

Bởi vì nếu chúng ta nhìn kỹ vào tình hình quân sự hai phe Nam, Bắc vào thời điểm Hiệp định Paris được ký kết, khi đó văn phòng tình báo tại Đại sứ quán Mỹ ước tính số lính Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam là khoảng 25 ngàn người.

Khi đó quân lính Việt Nam Cộng hòa là hơn một triệu. Ở mọi ngôi làng ở Nam Việt Nam không còn bóng dáng Mặt trận Giải phóng Dân tộc gì hết.

Thế rồi Mỹ cắt viện trợ thế là Nguyễn Văn Thiệu và binh sĩ cạn súng, đạn, máy bay, xe tăng... Cùng lúc đó, Liên Xô và Trung Quốc lại bơm vũ khí cho Bắc Việt.

Về Tổng thống Thiệu, một thông tin rất quan trọng là vào tháng 11/1972, Tổng thống Nixon gửi cho ông ấy lá thư riêng, nêu rằng ông Thiệu nên ký Hiệp định Paris, trong trường hợp Hà Nội vi phạm hiệp định thì Nixon sẽ điều máy bay B-52 vào ném bom miền Bắc.

Thế nhưng sau khi ông Nixon từ chức sau vụ bê bối Watergate, người kế nhiệm ông ấy là Gerald Ford (1974 - 1977) lại không thấy mặn mà thực thi nghĩa vụ đó, còn phe Dân chủ trong Quốc hội Mỹ thì lại cắt viện trợ, và thông qua đạo luật có nội dung vị tổng thống không thể tự mình quyết định cử máy bay B-52 đến Việt Nam.

Như vậy chúng ta có thể thấy tình thế đã xoay chuyển. Lê Duẩn đã đưa ra quyết định vào tháng 01/1975 khi thấy thời cơ đã đến.

Việt Nam Cộng hòa lại không có đủ quân lính chốt chặn tại các vị trí dọc đường ranh giới. Hà Nội có thể tận dụng những điểm yếu đó như Buôn Mê Thuột... huy động hai đến ba sư đoàn chống lại một số lượng binh lính ít ỏi của Nam Việt Nam và chiến thắng.

Nếu Mỹ cử B-52 đến thì có lẽ Việt Nam Cộng hòa vẫn còn sống được. Và chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc chiến đầu tiên mà người Mỹ thất bại, để lại những cảm xúc nặng nề, chúng tôi bị mất đi sự kiêu hãnh vì thất bại.

Theo quan điểm của tôi, những hành động của Henry Kissinger là nguyên nhân chính [principal cause] cho sự bại trận của Việt Nam Cộng hòa bởi vì đã tạo sự chuyển biến về thế trận, quyền lực, khiến Việt Nam Cộng hòa bị bất lợi.

Nếu Kissinger vùng lên với nắm đấm, thì khi ấy Việt Nam Cộng hòa còn hơn một triệu binh lính cùng nhuệ khí, nền kinh tế phát triển... trong khi mặt trận giải phóng thì đã rút thì tình hình đã khác.

Một yếu tố khác theo tôi suy đoán, là khi ấy đã có một thỏa thuận hòa bình nên tâm lý của nhiều người Mỹ là chiến tranh đã kết thúc, nước Mỹ không cần làm điều gì nữa.

Nước Mỹ đã không hiểu hết về Việt Nam, về Lê Duẩn hay Lê Đức Thọ... Bắc Việt đã không hứa để giữ lời hứa [They don't promise to keep promises].

Ông Nguyễn Văn Thiệu và Tổng thống Nixon

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Tổng thống Richard Nixon và Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc gặp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương vào năm 1969

BBC: Ông có nghĩ rằng Kissinger là một người yêu nước, chỉ muốn làm điều tốt nhất cho lợi ích quốc gia của nước Mỹ?

Giáo sư Stephen B. Young: Ai đó có thể nghĩ như vậy nhưng tôi thì không.

Đọc rất nhiều về Henry Kissinger và đây là cảm xúc cá nhân của tôi, tôi không có tài liệu minh chứng điều này. Khi tôi kể cho mọi người và khi họ đọc sách của tôi thì đều đặt câu hỏi "Tại sao ông ta lại làm chuyện đó?", phản bội tổng thống, phản bội đồng minh. Trong lịch sử nước Mỹ, chưa ai từng làm chuyện này.

Tôi nghĩ Kissinger nghĩ mình có phẩm chất vượt trội hơn người khác, Tiếng Anh gọi là 'grandiosity', ông ấy nghĩ mình giỏi hơn, thông minh hơn hết thảy những người khác và đã tự quyết định, tự kết luận là Mỹ không thể chiến thắng và nước Mỹ hãy thoát ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam.

Tôi nghĩ ông ta là người theo chủ nghĩa hiện thực [realist], phe yếu thì không nên tấn công phe mạnh hơn.

Và như chúng ta cũng thấy trong cuộc chiến Ukraine, Kissinger cũng gợi ý người dân Ukraine nên rút lui vì Nga mạnh hơn. Và xét về phương diện này thì ông ta có suy nghĩ rất giống Lê Duẩn.

Nhà sử gia Thucydides có câu nói nổi tiếng "The strong do what they can, the weak suffer what they must" và dường như Henry Kissinger đã theo câu nói này.

Kissinger đã hành động một mình mà không nói với ai. Ông ta che giấu tài liệu, không trung thực và công khai. Nếu các bạn đọc cuộc trao đổi của ông ta với Nixon trong thời gian 1971 đến 1972 đều được ghi âm lại, đều thấy Kissinger đã không nói đầy đủ với Nixon là mình đang làm gì.

Tôi đã phát hiện các tài liệu mà chưa có nhà sử học nào tìm ra như tôi đã trình bày về quá trình viết sách. Kissinger đều rất khéo chọn từ ngữ, để che giấu dụng ý thật sự của ông ấy.

Điều tôi học được từ Kissinger là khi đọc gì của ông ta thì nên đặt câu hỏi về những gì ông ta không đề cập tới. Bởi vì đối với tôi, đó lại là những ý quan trọng nhất.

Đối với tôi, Kissinger đã lạm dụng quyền lực cùng sự thất bại trong thể chế, khi một người đàn ông tự ra quyết định một mình mà không báo cáo với tổng thống, bộ trưởng quốc phòng, ngoại trưởng, hội đồng an ninh quốc gia, quốc hội vào năm 1971.

Nếu có danh dự, lẽ ra ông ta nói thẳng với tổng thống "tôi nghĩ chúng ta không thể chiến thắng cuộc chiến tranh Việt Nam, chúng ta phải rút quân, 58 ngàn binh sĩ đã bỏ mạng, tôi ủng hộ phong trào phản chiến", giả sử Nixon không đồng ý thế là Kissinger nộp đơn từ chức.

Thế nhưng Kissinger vẫn trung thành với Nixon về một nền hòa bình với danh dự, để rồi tạo ra một nền hòa bình "không danh dự".

Quân đội Việt Nam Cộng hòa vào năm 1972

Nguồn hình ảnh,Getty Images

Chụp lại hình ảnh,Quân đội Việt Nam Cộng hòa vào năm 1972

BBC: Trong sách ông viết là Thượng Nghị sĩ J. William Fulbright, người ủng hộ phong trào phản chiến, từng nói với Tổng thống Lyndon Johnson là cuộc chiến Việt Nam không có giá trị bởi vì người Việt Nam "không phải dạng của chúng ta" [are not our kind]. Sau tất cả, theo ông thì nước Mỹ vẫn là một đối tác đáng tin cậy?

Giáo sư Stephen B. Young: Nước Mỹ đã bỏ rơi người dân Afghanistan, dựa vào chính sách hay cách thức thương lượng của Kissinger trong chiến tranh Việt Nam.

Hãy tưởng tượng quý vị thương lượng với kẻ thù của bạn mình, sau đó lại bỏ rơi người bạn ấy. Nước Mỹ đã thất bại trong hai cuộc chiến, và bỏ rơi người dân hai lần.

Tôi thành thật có suy nghĩ, và thật khó để phải nói ra điều này.

Đối với những quốc gia châu Á ngày nay lo ngại về sự thống lĩnh của Trung Quốc, hãy đừng quá phụ thuộc vào nước Mỹ [Don't count o­n America].

Quốc gia của quý vị phải tự bảo vệ chính mình, quý vị chỉ có thể phụ thuộc Mỹ tới mức độ nào đó mà thôi.

Bởi vì quý vị luôn phải tự đặt câu hỏi là liệu có một Kissinger nào khác nữa hay là không.

Steve B. Young

Nguồn hình ảnh,Steve B. Young

Chụp lại hình ảnh,Tác giả Stephen B. Young (phải) khi công tác cho cơ quan USAID ở Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long vào năm 1969

Tác giả Stephen B. Young hiện là Giám đốc Điều hành Caux Round Table for Moral Capitalism. Ông từng làm phó khoa Luật Đại học Harvard, Giáo sư Luật tại Hamline University Law School.

Giáo sư Stephen B. Young từng làm việc cho Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) từ năm 1968-1972, sau đó là Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Những năm sau 1975, ông cùng vợ tham gia trợ giúp các thuyền nhân Việt Nam tị nạn tại Mỹ.

Các tác phẩm của Giáo sư Stephen B. Young gồm Kissinger's Betrayal: How America lost the Vietnam War, The Theory and Practice of Associative Power - CORDS, The Tradition of Human Rights in China and Vietnam, Moral Capitalism, The Way to Moral Capitalism...

ổng Bí thư Tô Lâm nói gì về chiến thắng 30/4?

Ảnh minh họa

Nguồn hình ảnh,Getty Images/BBC

"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một" là nhan đề bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm, trong đó đề cập tới Mỹ, Trung Quốc và dường như là cả Việt Nam Cộng Hòa.

Nhan đề này dựa trên câu nói năm xưa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

"Thời khắc lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một sự kiện trọng đại – ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối," ông Tô Lâm viết.

Cho tới nay, "giải phóng miền Nam" vẫn là cách chính quyền mô tả sự kiện Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30/4/1975.

Ngoài ra, bài viết của ông Tô Lâm cũng đề cập tới Chiến tranh Đông Dương, thứ mà Việt Nam gọi là "kháng chiến chống Pháp", kéo dài từ năm 1946 tới năm 1954.

Bài viết của tổng bí thư được công bố khi chỉ còn vài ngày nữa là tới thời điểm kỷ niệm 50 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam, trong lúc có những thông tin về việc Mỹ yêu cầu quan chức không tới dự sự kiện và Trung Quốc "cắm cờ chủ quyền" ở Trường Sa.

Vẫn là "kháng chiến chống Mỹ"

Trong bài viết của ông Tô Lâm, Chiến tranh Việt Nam được gọi là "cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy khó khăn gian khổ".

Đây là cách mà chính quyền Việt Nam vẫn luôn mô tả cuộc chiến này. Không có sự thay đổi nào sau thông tin về việc chính quyền Tổng thống Donald Trump chỉ đạo quan chức ngoại giao nước này không tham dự các sự kiện 30/4 sắp tổ chức, dù có những ý kiến cho rằng Việt Nam nên ngừng việc sử dụng các cách diễn đạt chỉ trích Mỹ.

Thực chất, trước đây trong một sự kiện tại Đại học Columbia diễn ra vào tháng 9/2024, trong phần trả lời và bài phát biểu của mình, ông Tô Lâm đã dùng cụm từ "chiến tranh  Việt Nam" và "cuộc chiến ở Việt Nam" để nói về Chiến tranh Việt Nam chứ không dùng cụm "cuộc kháng chiến chống Mỹ" như truyền thông trong nước hay sử dụng.

Đây có lẽ cũng là lần đầu tiên một người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam đối thoại trực tiếp công khai với một người tị nạn Chiến tranh Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Thị Liên Hằng, người điều phối trong phần tọa đàm với ông Tô Lâm và sinh viên Đại học Columbia hôm đó, đã cùng cha mẹ chạy tị nạn chiến tranh năm 1975.

Quay lại thời điểm hiện tại, vào dịp kỷ niệm 30/4 năm nay, giống như các năm trước, những diễn ngôn về "cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước" và "lên án tội ác" của Mỹ lại tràn ngập trên các mặt báo.

Trong khi đó, có những ý kiến cho rằng những diễn ngôn về 30/4 nên bớt "chửi Mỹ", đặc biệt là sau động thái nói trên từ Mỹ.

Viết trên Facebook cá nhân hôm 23/4, Kiến trúc sư Dương Quốc Chính từ Hà Nội cho rằng động thái này "sẽ khiến cho chương trình kỷ niệm 50 năm của Việt Nam cần được xem xét lại một cách cực kỳ cẩn trọng".

"Chủ yếu sẽ là những nội dung tuyên truyền chửi Mỹ nên được cân nhắc để lọc bỏ những nội dung thô thiển (nếu có). Các nhà ngoại giao Mỹ không thể tham gia sự kiện mà lại có những nội dung kiểu đó," ông viết.

Theo thông tin chính thức của Bộ Ngoại giao ngày 26/4, quan chức Lào và Campuchia sẽ tới dự lễ kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Mỹ và Trung Quốc không được nhắc tới tại thời điểm đó.

Chính quyền Hà Nội đã cho gỡ một tấm áp phích có hình ảnh chim bồ câu đứng trên mũ lính Mỹ tại khu vực Hồ Gươm, thay bằng tấm áp phích ở bên phải

Nguồn hình ảnh,Trang web chính quyền TP Tây Ninh/BBC

Chụp lại hình ảnh,Chính quyền Hà Nội đã cho gỡ một tấm áp phích có hình ảnh chim bồ câu đứng trên mũ lính Mỹ tại khu vực Hồ Gươm, thay bằng tấm áp phích ở bên phải

Bài viết của ông Tô Lâm cũng nhấn mạnh vào sức mạnh và ý chí dân tộc của người Việt Nam.

Ví dụ, ông viết rằng chiến thắng ngày 30/4/1975 "là chiến thắng của niềm tin, của ước nguyện độc lập, tự do và thống nhất đất nước; chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, chiến thắng của chân lý 'Không có gì quý hơn độc lập, tự do' và của tinh thần yêu nước nồng nàn,'' thậm chí đã "để lại dấu ấn mạnh mẽ trên trường quốc tế, cổ vũ sâu sắc phong trào giải phóng dân tộc tại nhiều khu vực Á, Phi, Mỹ Latin".

Vài ngày trước, trong một cuộc phỏng vấn với BBC News Tiếng Việtcựu điệp viên CIA Frank Snepp nhận định rằng Việt Nam nên dừng cách tuyên truyền này.

"Một trong những vấn đề lớn với nỗ lực hòa giải là Hà Nội vẫn khăng khăng dựng nên một hình ảnh sai lệch về cuộc chiến. Họ vẫn muốn tuyên bố rằng chủ nghĩa dân tộc đã chiến thắng, rằng lòng yêu nước chỉ thuộc về phía cộng sản, về bên thắng cuộc. Đó là cách làm rất tệ trong việc xây dựng cầu nối hòa hợp hòa giải."

"Giới lãnh đạo Hà Nội, những người chiến thắng, nghĩ điều đó sẽ khiến những người phía Việt Nam Cộng hòa cảm thấy thế nào? Đó là một điều sai trái."

"Đảng Cộng sản Việt Nam nên hiểu rằng, cách tốt nhất để hòa giải với cựu thù là ngừng sỉ nhục họ [Mỹ và VNCH] và thôi giả vờ rằng mình mới là tốt đẹp nhất. Hãy thôi độc quyền về phẩm hạnh, thể hiện rằng chỉ Hà Nội là phía duy nhất có lòng yêu nước, có lý tưởng cao đẹp."

ảnh minh họa câu nói của ông Frank Snepp

Cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa

Trong bài viết này, Tổng Bí thư Tô Lâm đề cập tới vấn đề hòa giải không chỉ với Mỹ mà dường như với cả những người từng thuộc chính thể Việt Nam Cộng Hòa.

"Không có vùng đất nào trên quê hương Việt Nam không có đau thương; không có gia đình nào mà không gánh chịu những mất mát, hy sinh và cho đến nay chúng ta vẫn còn phải khắc phục hậu quả chiến tranh và bom mìn, chất độc da cam…"

"Sau 50 năm đất nước thống nhất, chúng ta đã có đủ bản lĩnh, đủ niềm tin, sự tự hào và đủ bao dung để vượt qua đau thương cùng nhau nhìn về phía trước – để cuộc chiến tranh đã qua không còn là hố ngăn cách giữa những người con cùng một dòng máu Lạc Hồng.

"Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng: mọi người Việt Nam, dù ở trong nước hay ngoài nước, dù từng đứng ở phía nào của lịch sử, đều cùng mang một cội nguồn, một ngôn ngữ, một tình yêu dành cho quê hương, đất nước," một đoạn khác viết.

Không chỉ năm nay, hòa hợp, hòa giải dân tộc là chủ đề tốn nhiều giấy mực của các cơ quan cầm quyền trong nhiều dịp kỷ niệm 30/4.

Trong một bài viết đăng tháng 4/2015, Ban biên tập trang Lâm Đồng o­nline cho rằng mấu chốt của hòa giải, hòa hợp dân tộc ''như Đảng ta đã chỉ ra là xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.''

Các kênh truyền thông của Đảng và Nhà nước thường phân biệt giữa những người Việt ở nước ngoài muốn hòa giải dân tộc, ''đóng góp xây dựng đất nước'' và ''một bộ phận cố chấp, hằn học, chống phá, sau gần nửa thế kỷ đất nước được thống nhất, non sông thu về một mối mà vẫn gọi ngày 30/4 là 'ngày quốc hận''', theo một bài viết trên trang chính thức của Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại vào tháng 4/2022.

Gần nửa thế kỷ sau khi chiến tranh chấm dứt, trong khi hòa giải giữa Việt Nam và cựu thù Mỹ có những bước tiến rõ rệt, việc hòa giải giữa những người Việt từng đứng ở hai bờ chiến tuyến vẫn còn nhiều trắc trở.

Những từ ngữ như "ngụy quân ngụy quyền", "cờ Ngụy" (khi nói tới cờ của Việt Nam Cộng Hòa) vẫn được sử dụng. Trong khi đó, các biểu tượng của chính thể này luôn bị kiểm duyệt gắt gao.

Báo chí mọi lúc mọi nơi đều phải kiểm soát chặt, không để lọt các hình ảnh có cờ vàng ba sọc đỏ lên trang báo. Ở các di tích liên quan đến Việt Nam Cộng hòa, cờ vàng trên các hiện vật lịch sử (như máy bay, xe,…) cũng bị gạch chéo, chẳng hạn tại Dinh Độc Lập.

Gần đây, BBC News Tiếng Việt đã phỏng vấn những người tham gia trùng tu nghĩa trang Biên Hòa - một trong số ít nơi an nghỉ còn sót lại của lính Việt Nam Cộng Hòa. Theo ông Nguyễn Đạc Thành, một cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa và là người thành lập Sáng hội Việt Mỹ (Vietnamese American Foundation-VAF), công cuộc trùng tu nghĩa trang này vẫn còn nhiều trắc trở.

Giờ đây, với tuyên bố của ông Tô Lâm, không rõ liệu có biến chuyển gì không.

Chụp lại video,Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?

Cảm ơn 'các nước xã hội chủ nghĩa anh em'

"Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với bạn bè quốc tế – các lực lượng tiến bộ, các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các tổ chức nhân đạo và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới – đã đồng hành, giúp đỡ và ủng hộ Việt Nam trong suốt những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp tái thiết và phát triển đất nước sau chiến tranh," bài viết của ông Tô Lâm nêu.

"Các nước xã hội chủ nghĩa anh em" ở đây có lẽ là nhắc tới Trung Quốc và Liên Xô.

Trong Chiến tranh Việt Nam, Bắc Kinh đã hỗ trợ cả tài lực và nhân lực cho Hà Nội.

Tính từ năm 1955 tới năm 1975, tổng khối lượng viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam là 1.594.724 tấn, trong đó có những loại vũ khí như súng bộ binh, súng chống tăng, pháo cao xạ, máy bay chiến đấu, tàu chiến hải quân…

Bộ đội Việt Nam cũng được sang Trung Quốc nhận huấn luyện và đem theo súng đạn khi quay về nước, theo bài viết đăng ngày 1/5/2009 trên báo Quân đội nhân dân.

Về nhân lực, tính từ tháng 6/1965 đến tháng 8/1973, Trung Quốc đã điều động tổng cộng hơn 320.000 binh sĩ thuộc các quân chủng phòng không, công binh, đường sắt, rà phá bom mìn và hậu cần,... để thực hiện các nhiệm vụ phòng không, xây dựng, rà phá bom mìn và đảm bảo hậu cần ở miền Bắc Việt Nam, theo bài viết ngày 20/4/2022 trên trang web tiếng Việt của Đài phát thanh Quốc tế Trung Quốc (China Radio International).

Trong cuốn sách China & The Vietnam Wars, 1950-1975 (Tạm dịch: Trung Quốc và những cuộc chiến ở Việt Nam, từ 1950 tới 1975), nhà sử học Qiang Zhai tại Đại học Auburn ở Montgomery (Mỹ) nhận định rằng trong thập niên 1950 và 1960, Chủ tịch Mao Trạch Đông coi Mỹ là mối đe dọa chính đối với an ninh của thắng lợi cách mạng mới giành được ở Trung Quốc. Vì vậy, Mao xem việc ủng hộ Hồ Chí Minh là cách tốt để làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ tại Đông Nam Á.

Trong một cuộc phỏng vấn với Trung tâm nghiên cứu Wilson (Wilson Center) vào năm 2001, nhà sử học Qiang Zhai nói rằng lý do Việt Nam không nói nhiều tới sự hỗ trợ của Trung Quốc vì muốn nhìn nhận thắng lợi trước Pháp và Mỹ là thành quả từ nỗ lực tự thân.

"Do đó, họ không nhấn mạnh sự giúp đỡ từ Trung Quốc và cả Liên Xô. Việt Nam nhất quyết cho rằng đó là chiến thắng của họ!" ông nói thêm.

Giờ đây, lời cảm ơn của Tổng Bí thư, dù không nhắc đích danh Trung Quốc, nhưng cũng cho thấy những biến chuyển trong cách tiếp cận của Việt Nam.

Trong lễ kỷ niệm 30/4 năm nay, Việt Nam đã mời Trung Quốc sang diễu binh cùng. Hôm 25/4, quân đội Trung Quốc đã tới TP HCM để tham gia tập dượt.

Cùng ngày, Tân Hoa Xã và một loạt trang mạng tiếng Trung Quốc đã đăng tải hình ảnh Hải cảnh Trung Quốc đổ bộ lên một bãi cạn tại cụm Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa, khu vực mà Việt Nam gọi là huyện đảo Trường Sa. Trước đó một ngày, Hoàn cầu Thời báo cũng đăng bộ ảnh tương tự.



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 

     Đọc nhiều nhất 
Kính gửi những doanh nhân, nhà khoa học, kỹ sư, công nghệ tài ba và những người tiền phong tương lai, [Đã đọc: 355 lần]
From The Vietnam War and the Exodus to Canadat o Trump Era [Đã đọc: 298 lần]
Canada’s Choice: Stability, Progress, and Leadership with Mark Carney [Đã đọc: 263 lần]
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt 30-4-75 tưởng niệm nửa thế kỷ [Đã đọc: 227 lần]
Cảnh báo về việc lựa chọn nhà thầu xây dựng: Đừng để ảnh hưởng chính trị và giá rẻ làm lu mờ chất lượng [Đã đọc: 218 lần]
Beautiful electric cars made in Canada to compete worldwide [Đã đọc: 215 lần]
Thất Bại Lịch Sử Của Trump Trong 100 Ngày Đầu Tiên: Một Bức Tranh U Ám [Đã đọc: 205 lần]
Kính gửi Quý Đồng bào Người Mỹ gốc Việt cùng với những người Việt Nam trong nước và trên toàn thế giới yêu quý, [Đã đọc: 204 lần]
Phong Trào Thịnh Vượng Việt Nam giúp người Việt làm giàu và nhân đạo [Đã đọc: 192 lần]
Trả Lại Tên Sài Gòn: Giấc Mơ Hồi Sinh [Đã đọc: 168 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.