Thoát Trung để thoát Tử: Corona, cơ hội ngàn năm một thuở giải phóng VN khỏi nô lệ đế quốc Trung Hoa vĩnh viễn
22.02.2020 12:28
Virus corona - Covid-19: Cơ hội để Việt Nam giảm phụ thuộc thị trường Trung Quốc?
Hung Hằng, RFI - Phải chăng « trong cái rủi có cái may », dịch Covid-19 có lẽ là cơ hội để Việt Nam không bị phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Trao đổi mậu dịch song phương lên đến 107,6 tỉ đô la.
Ảnh minh họa: Công nhân phân loại và đóng gói trái vải để xuất khẩu tại một cơ sở ở phía bắc thành phố Hải Dương, miền Bắc Việt Nam. i Duong province.HOANG DINH NAM / AFP
Theo Tổng Cục Thống Kê, Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất từ Trung Quốc, đạt mức 75,3 tỉ đô la trong năm 2019, tăng 14% so với năm 2018. Những mặt hàng chủ yếu nhập từ Trung Quốc là tư liệu sản xuất, trong đó có nguyên, nhiên, vật liệu. Về xuất khẩu, Trung Quốc là thị trường lớn thứ ba của Việt Nam (sau Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu), đạt 32,5 tỉ đô la tính đến tháng 10/2019, trong đó có nông sản, thủy hải sản…
Tuy nhiên, dường như thị trường Trung Quốc trở nên « khó tính » hơn đối với nông sản Việt Nam. Điều này được thể hiện qua đề nghị « khơi thông nông sản xuất khẩu từ Việt Nam » của phó thủ tướng Vương Đình Huệ với lãnh đạo tỉnh ủy Vân Nam (Trung Quốc) hôm 23/10/2019.
Thực vậy, Trung Quốc không còn là nhà nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, mà hiện tại là Philippines. Nguyên nhân chính là do chiến tranh thương mại Mỹ-Trung khiến hàng Trung Quốc bị tồn đọng nhiều, phải tiêu thụ trong nước nên nhu cầu nhập khẩu giảm mạnh.
Ngoài ra, do Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ để hỗ trợ xuất khẩu nên chính phủ phải chi nhiều hơn cho nhập khẩu. Hậu quả là gạo của Việt Nam bị ép giá. Cuối cùng, thị trường Trung Quốc cũng có những thay đổi : người tiêu dùng có đời sống cao hơn, tập trung vào chất lượng hơn là số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Dịch virus corona (Covid-19) tại Trung Quốc gây tác động trực tiếp đến trao đổi thương mại với Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ của Tổng Cục Hải Quan, tổng trị giá xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc trong tháng 01/2020 chỉ đạt 8,29 tỉ đô la, giảm 25,8% so với tháng 12/2019 và giảm 11,8% so với cùng kỳ năm 2019. Ngoài lý do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán của hai nước kéo dài và rơi vào tháng Giêng, dịch bệnh Covid-19 cũng khiến hoạt động kinh tế và sản xuất của Trung Quốc gần như bị tê liệt.
Trang bignewsnetwork ngày 17/02 nhận định « giữa hai nước (Việt Nam và Trung Quốc) tồn tại một môi trường và điều kiện sản xuất và việc giảm khả năng hoặc nhu cầu từ một nước sẽ tác động đến nước kia ». Một trong những tác động đầu tiên, từng được chính phủ Việt Nam nhắc đến, là thiếu vật liệu để sản xuất khẩu trang ngay đầu mùa dịch Covid-19 khi nhu cầu tăng cao bất thường. Tiếp theo, là trái cây và nông phẩm tiếp tục ùn ứ ở cửa khẩu phụ Tân Thanh và Cốc Nam - tỉnh Lạng Sơn và lối mở Km3+4 trong những ngày gần đây, theo trang Petro Times (ngày 19/02).
Dù thủ tướng chính phủ ban hành quyết định 224/CĐ-TTg ngày 12/2/2020 cho phép tiếp tục hoạt động xuất nhập khẩu, vận chuyển hàng hóa qua hai cửa khẩu phụ này, nhưng thời gian hoàn tất thủ tục thuế, cũng như việc cách ly được cả hai bên áp dụng khiến thời gian giao hàng bị kéo dài và ảnh hưởng đến chất lượng một số sản phẩm tươi như trái cây.
Cũng vì dịch bệnh, thông thương đường sắt và hàng không với Trung Quốc bị giảm khiến Việt Nam không thể nhận được đúng thời hạn nguyên vật liệu, sản phẩm từ Trung Quốc, ảnh hưởng đến thời hạn giao hàng cho bên thứ ba.
Trang The Star (ngày 17/02) của Miến Điện cho rằng dịch Covid-19 là cơ hội để Việt Nam tìm ra những nguồn cung cấp vật liệu mới cũng như đầu ra cho nông phẩm. Một số doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có lĩnh vực dệt may, đang nghiên cứu nhập khẩu vật liệu từ Hàn Quốc, Ấn Độ, Bangladesh và Brazil để tránh phụ thuộc vào khối lượng nhập khẩu rất lớn từ Trung Quốc.
Trong chuyến công du Ấn Độ vào tuần trước, thứ trưởng bộ Công Thương Việt Nam Cao Quốc Hùng đã đề nghị New Delhi tăng khối lượng nhập khẩu trái cây Việt Nam (nhãn, vải, mãng cầu, thanh long), cũng như cá nuôi và vải cho ngành dệt may. Từ 5 năm gần gây, trao đổi thương mại giữa hai nước đã tăng thêm gần 48%, đạt 13,7 tỉ đô la trong năm 2019, nhưng Việt Nam vẫn chỉ là đối tác thương mại thứ 4 trong khối ASEAN của Ấn Độ.
Cuối cùng, Liên Hiệp Châu Âu, với hiệp định thương mại EVFTA được Nghị Viện Châu Âu thông qua ngày 12/02, là cơ hội để Việt Nam tăng khối lượng trao đổi mậu dịch, tránh phụ thuộc vào Trung Quốc.
Vì sao kinh tế Việt Nam quá khó để thoát Trung?
Thụy My
« Thoát Trung », đó là cụm từ mới xuất hiện rất nhiều trên mặt báo chính thống cũng như trên các mạng xã hội Việt Nam trong thời gian gần đây, đặt ra một vấn đề lớn mà lâu nay hầu như nan giải. Không chỉ chính trị bị ảnh hưởng nặng nề từ « Thiên triều », mà nền kinh tế đang lệ thuộc chặt chẽ vào Trung Quốc, cũng hết sức chật vật khi muốn thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người láng giềng khổng lồ tham lam, nhiều thủ đoạn ở phương Bắc.
RFI Việt ngữ đã đặt vấn đề này với nhà bình luận đồng thời là tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng ở Saigon.
RFI : Vào những ngày này người dân Việt Nam đang sống trong khung cảnh các giàn khoan Trung Quốc vẫn đều đặn tiến chiếm vùng lãnh hải của mình. Nhưng dư luận trong nước cũng đang dậy lên những tiền đề cho một phong trào “Thoát Trung”. Anh có chia sẻ với ý tưởng này không?
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng : Không phải chờ đến bây giờ khi các tàu Trung Quốc đâm nát tàu kiểm ngư Việt Nam, mà cách đây ba năm khi “người anh em láng giềng” này lần đầu tiên dám cắt cáp tàu Bình Minh, ý tưởng đầu tiên về phong trào “Thoát Trung” đã hình thành trong một bộ phận giới trí thức Việt Nam. Tuy nhiên lúc đó chỉ là một bộ phận nhỏ thôi. Hơn nữa, có muốn trở nên "bộ phận lớn" cũng chưa thể được vì khi đó Nhà nước Việt Nam còn say sưa trấn áp, đàn áp các cuộc biểu tình ôn hòa phản đối Trung Quốc.
Nhưng còn bây giờ thì tình hình đã trở nên bĩ cực hơn nhiều. Dù cho chính quyền vẫn chưa bớt ham muốn việc phong tỏa biểu tình chống Trung Quốc, nhưng một khi quân đội Việt Nam bị đặt vào thế sẵn sàng chiến đấu thì không có lý gì để phong trào “Thoát Trung” không trỗi dậy.
Vào tháng 6/2014, lần đầu tiên một cuộc hội thảo về “Thoát Trung” đã được một số trí thức độc lập cộng với một nhóm trí thức thuộc trường phái “phản biện trung thành” tổ chức ở Hà Nội. Đã có một số bài tham luận được nêu ra. Nhưng nhìn chung, dư luận người nghe vẫn chưa thỏa mãn trước những luận đề có vẻ còn khá trừu tượng. Dư luận đặt thẳng câu hỏi là nói tới “Thoát Trung” thì phải nói cho rõ là thoát cái gì và làm thế nào để thoát, chứ tình thế hiểm nghèo hiện thời không còn cho phép việc nói chung chung nữa.
Riêng tôi cho rằng vấn đề thoát Trung, xét về mặt thượng tầng là thoát khỏi ý thức hệ của Bắc Kinh vốn đã chi phối quá nhiều đối với giới lãnh đạo bảo thủ ở Hà Nội, một ý thức hệ mà cho tới nay đã chứng tỏ sự nguy hiểm đến mức kéo lùi tiến trình vận động xã hội và xu thế dân chủ về lại những năm 60-70 của thế kỷ XX. Đây chính là thoát khỏi phương diện bị ràng buộc về tư tưởng chính trị và thể chế chính trị.
RFI : Nhưng các biểu hiện của chính thể ở Hà Nội cho thấy vẫn còn khá gắn bó với Trung Quốc?
PCD : Đây cũng là một câu hỏi, mà trên hết có thể coi là một tinh thần phẫn nộ, được rất nhiều người trong giới cách mạng lão thành, trí thức, nhân dân và cả một phần cán bộ đương chức đang xoáy vào Bộ Chính trị của Đảng. Đó là tại sao khi Trung Quốc đã công khai khiêu khích và không giấu diếm ý đồ thôn tính Việt Nam trong những năm tới, toàn bộ Ban chấp hành Trung ương, Quốc hội và Chính phủ vẫn bình chân như vại? Thậm chí trong kỳ họp đang diễn ra, Quốc hội còn không dám ban hành một nghị quyết riêng về Biển Đông, và cho tới giờ này cũng chưa thấy bóng dáng hồ sơ kiện cáo Trung Quốc ra tòa án quốc tế…
Vào lúc cuộc chiến biên giới phía Bắc xảy ra vào năm 1979, người ta còn có thể hiểu được là sự xoắn quyện về ý thức hệ khi đó vẫn đang ở mức cao độ, và một cuộc chiến với cả trăm ngàn người thiệt mạng của hai bên thật ra không có ý nghĩa lớn lao so với việc sau đó hai chế độ vẫn phải tiếp tục dựa vào nhau để “chống lại chủ nghĩa đế quốc”. Thế nhưng hơn ba chục năm sau thì không ít người trong nội bộ đảng đã hầu như thất vọng với lý thuyết “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam hay “chủ nghĩa xã hội hài hòa” ở Trung Quốc.
Quá nhiều đổ bể tâm trạng khi phải đối chiếu giữa một bên là hàng ngàn trang giáo điều về hệ tư tưởng cộng sản, còn bên kia là một thứ chủ nghĩa tư bản dã man đang chế ngự với cường độ ghê gớm ở cả hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam. Mà như vậy thì làm sao có thể còn nói đến chuyện ý thức hệ là tấm gương phản chiếu cho cả hai chế độ Bắc Kinh và Hà Nội? Hay có thể hiểu là cơ chế cộng sinh ý thức hệ chỉ là một lý do đầy tính ngụy biện?
Nhưng nếu không phải là sự phụ thuộc lẫn nhau vào ý thức hệ thì vào cái gì? Phải chăng đó là sự lệ thuộc hay phụ thuộc quá lớn vào “tình hữu nghị giữa hai dân tộc”? Hay bị câu nệ vào một mối quan hệ văn hóa truyền thống giữa hai đất nước có rất nhiều đặc điểm giống nhau? Hay còn gì khác nữa?...
RFI : Theo anh thì còn lý do gì khác?
PCD : Nếu quan sát những gì đã diễn ra giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc từ ít nhất 40 năm qua, thì có thể kết luận không ngần ngại là gần như mọi mối quan hệ chính trị đều xuất phát từ lợi ích kinh tế và đều dựa vào lợi ích kinh tế để cùng tồn tại. Chúng ta đang đi đến điểm cốt lõi của vấn đề: kinh tế quyết định chính trị.
Các tập đoàn chính trị Việt Nam không thể “làm khó” Trung Quốc một khi họ bị phụ thuộc quá nhiều vào những lợi ích kinh tế béo bở, bất chấp việc nền kinh tế nước nhà gần như chẳng được lợi lộc gì trong quan hệ giao thương với Trung Quốc trong ít nhất từ năm 2001 đến nay. Mà như vậy, muốn thoát Trung về chính trị trước mắt và thoát Trung về văn hóa trong lâu dài, thì trước hết và điều kiện cần là phải thoát Trung về kinh tế.
RFI : Kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc vào Trung Quốc đến mức nào?
PCD : Gần đây giới chuyên gia nhà nước mới dần hé lộ về thực trạng kinh tế Việt Nam phải nhập siêu đến mức nào từ Trung Quốc. Nếu lấy mốc từ năm 2001 theo một thống kê của Việt Nam, thì từ năm đó đến nay, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc với quy mô không ngừng tăng qua các năm với tốc độ chóng mặt, từ 200 triệu đô la Mỹ năm 2001 lên gần 24 tỉ đô la Mỹ năm 2013, tức tăng đến 120 lần. Cần lưu ý là tổng nhập siêu của Việt Nam từ các nước khác, sau khi đạt đỉnh 18 tỉ đô la Mỹ vào năm 2008, bắt đầu xu thế giảm xuống từ năm 2009 đến nay, thậm chí năm 2012 và 2013 Việt Nam còn chuyển sang xuất siêu. Trong khi đó, nhập siêu từ Trung Quốc thì không hề giảm mà vẫn tiếp tục tăng mạnh, từ 11 tỉ đô la Mỹ năm 2009 lên 24 tỉ đô la Mỹ năm 2013.
Hậu quả cho đến giờ này là trong 110 nhóm hàng nhập từ Trung Quốc với giá trị lên đến 37 tỉ USD vào năm 2013, có rất nhiều sản phẩm là linh kiện đầu vào cho sản xuất, trang thiết bị cho dự án đầu tư đang triển khai của Việt Nam. Dù con số đó chỉ bằng 1% tổng xuất khẩu của Trung Quốc nhưng lại tương đương đến 28% tổng nhập khẩu của Việt Nam.
Tình huống có thể xảy đến là nếu Trung Quốc đột ngột ngừng xuất khẩu sang Việt Nam thì sẽ gây ra tác động dây chuyền không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam. Một số doanh nghiệp dệt may còn tiết lộ là họ chỉ có thể cầm cự được vài ba tháng nếu thiếu nguồn nguyên liệu của Trung Quốc. Nói ra điều này thật đau lòng và còn có vẻ quá bất lợi vì rõ ràng đó là thế quá yếu của kinh tế Việt Nam, song đã đến lúc không thể không nói thẳng, nếu thực sự muốn thoát Trung về kinh tế.
RFI : Có lẽ phải có những nguyên nhân đủ lớn khiến cho lượng nhập siêu từ Trung Quốc lại tăng mạnh đến vậy?
PCD : Đương nhiên câu chuyện Việt – Trung không bao giờ thiếu nguyên nhân. Nếu chúng ta tổng hợp ý kiến của khá nhiều chuyên gia thì có một số nguyên nhân chính như sau :
Thứ nhất, hàng Trung Quốc từ máy móc thiết bị đến nguyên phụ liệu hay hàng tiêu dùng hầu hết đều có giá rất rẻ, do chi phí nhân công của Trung Quốc vào loại thấp nhất thế giới. Cùng lúc đó và khác nhiều với Việt Nam, Trung Quốc vẫn duy trì phần nào chính sách hỗ trợ xuất khẩu, mà một trong những bằng chứng là hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang các thị trường Mỹ và Tây Âu rất ít khi bị kiện cáo như giới xuất khẩu tôm và cá ba sa Việt Nam từng bị.
Với ưu thế giá rẻ, hàng tiêu dùng Trung Quốc được nhiều người tiêu dùng Việt Nam, đặc biệt người thu nhập thấp chấp nhận. Nguyên phụ liệu từ Trung Quốc được nhập khẩu nhiều cũng do giá rẻ, nhất là khi Việt Nam chưa có ngành công nghiệp phụ trợ đủ mạnh để cung cấp nguyên phụ liệu cho các ngành gia công xuất khẩu. Máy móc thiết bị giá rẻ của Trung Quốc được nhiều doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa do khả năng tài chính hạn chế của họ. Riêng câu chuyện này thì chỉ có thể nói là mình nên tự trách mình, vì suốt từ năm 2007 khi Việt Nam tham gia vào WTO đến nay, phần lớn doanh nghiệp đã không cải thiện đáng kể năng lực cạnh tranh của họ.
Một nguyên nhân khác là trong cơ cấu sản phẩm trong thương mại Việt -Trung, Việt Nam có đến trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc. Chủ yếu là khoáng sản, nông lâm thủy sản thô, sơ chế với giá trị gia tăng thấp, giá cả lại bấp bênh và thường có xu hướng giảm, giá so sánh tương đối thấp so với các sản phẩm chế biến - chế tạo. Trong khi đó các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là thành phẩm hóa chất, sản phẩm chế tác cơ bản, máy móc thiết bị, có giá trị gia tăng cao, chiếm trên 80% tổng nhập khẩu từ Trung Quốc. Hiển nhiên tương quan lực lượng như vậy cho thấy Trung Quốc có lợi nhiều hơn hẳn so với Việt Nam.
Một ví dụ điển hình là cùng mặt hàng nông sản, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc một đơn vị thì nhập khẩu từ quốc gia này đến 10 đơn vị mặt hàng nông sản cùng loại. Không thể nói khác là tỉ lệ 1/10 và phương thức nhập khẩu kiểu đó đã làm cho Việt Nam trở thành nơi cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến của Trung Quốc.
Chẳng hạn như dệt may của Việt Nam, tuy là ngành giải quyết nhiều lao động, nhưng thực chất là may gia công, là nơi tiêu thụ nguyên liệu cho Trung Quốc. Do đó ngày càng phụ thuộc đến mức nếu không có nguyên liệu Trung Quốc, nhiều người lo ngại ngành may mặc Việt Nam sẽ tiêu điều.
May mặc lại là ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam, mỗi năm xuất khẩu 18-20 tỉ USD, nhưng hơn 70% nguyên phụ liệu của may mặc phải nhập từ Trung Quốc và số lợi nhuận này do Trung Quốc hưởng trọn. Vì thế giới doanh nghiệp dệt may đã phải thống thiết rằng những nguyên liệu này không đòi hỏi công nghệ cao gì cả, nhưng tại sao Việt Nam không làm được mà lại bỏ ngỏ cho Trung Quốc?
Một nguyên nhân nữa chính là một thực tế rất trần trụi: mặc dù đã giao thương từ rất nhiều năm qua, nhưng Việt Nam hầu như không có hàng rào kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc - từ yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với thực phẩm, đến các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn sử dụng đối với máy móc, thiết bị, đồ gia dụng. Thế là cơn lũ hàng hóa của Trung Quốc bất kể chất lượng, phẩm cấp thế nào vẫn tràn vào Việt Nam.
Còn với Trung Quốc thì ngược lại hoàn toàn. Ngoài hàng rào kỹ thuật, Trung Quốc còn yêu cầu hàng Việt Nam sang Trung Quốc buộc phải qua một số cửa khẩu do Trung Quốc chỉ định. Như hải sản chỉ được đi qua Móng Cái, cao su chỉ được đi qua Móng Cái, Lục Lầm, hoa quả tươi chỉ được qua Lào Cai, Lạng Sơn…
Với Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Trung Quốc và Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc (ASEAN+3), trong khi Việt Nam chưa tận dụng được bao nhiêu thì Trung Quốc triệt để khai thác lợi thế. Chẳng hạn 10 năm sau khi Hiệp định ASEAN+3 có hiệu lực (2000-2010), xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam tăng 25 lần, trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ tăng 5 lần.
Hậu quả cho tới nay là nếu theo con đường chính ngạch, hàng hóa Việt Nam mới chỉ thâm nhập vào các tỉnh ven biên giới như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông mà chưa thể thâm nhập sâu vào nội địa Trung Quốc. Điều này cũng trực tiếp làm suy giảm lợi ích từ hoạt động thương mại của Việt Nam.
Còn nếu hàng hóa Việt Nam xuất theo con đường tiểu ngạch thì còn bi kịch hơn nữa, bởi khá nhiều sản phẩm sơ chế là do thương nhân Trung Quốc thu mua tận gốc với giá rẻ. Vài năm qua đã chứng kiến không biết bao nhiêu trường hợp nông dân Việt Nam bán ngọn chặt gốc và sau đó là phá sản vì bị thương lái Trung Quốc “xù” hợp đồng. Cần chú ý là thương mại tiểu ngạch chiếm một tỉ trọng đáng kể trong thương mại với Trung Quốc, không chỉ tác động đến nguồn thuế thu, gây khó khăn cho việc quản lý chất lượng hàng nhập khẩu mà còn tác động tiêu cực đến các nhà xuất khẩu của Việt Nam.
RFI : Dư luận gần đây cũng đặt lại câu hỏi về hiện tượng doanh nghiệp Trung Quốc gần như thống trị công tác đấu thầu trong một số lĩnh vực quan yếu của Việt Nam. Thực trạng này có làm hoạt động nhập khẩu của Việt Nam trở nên tiêu cực?
PCD : Chứng minh rõ ràng nhất, tuy có thể chưa đầy đủ, là dựa vào một khảo sát của Viện Nghiên cứu Cơ khí ở Việt Nam. Trong suốt giai đoạn 2003-2013, Trung Quốc đã thống trị nhóm sản phẩm ở 4 trong 5 ngành chính là thủy điện, nhiệt điện, xi măng, bauxite, và sàng tuyển than tại Việt Nam. Hệ quả là mỗi năm, Việt Nam phải nai lưng nhập khẩu đến 10 tỉ đô la Mỹ cho nhóm sản phẩm máy và thiết bị đồng bộ, trong khi tỉ lệ nội địa hóa là cực kỳ thấp.
Chẳng hạn như các dự án ximăng áp dụng cơ chế EPC (tức nhà thầu thực hiện toàn bộ công việc từ thiết kế, cung cấp máy móc, thiết bị đến thi công xây dựng, vận hành chạy thử rồi bàn giao). Đây chính là những dự án do Trung Quốc làm tổng thầu có tỉ lệ nội địa hóa 0%. Trong khi theo Viện Nghiên cứu Cơ khí thì về mặt kỹ thuật, người Việt Nam có thể thiết kế, chế tạo trong nước tới 40% giá trị thiết bị của các nhà máy này.
Hay với ngành công nghiệp nhiệt điện đốt than, trong 20 dự án đã và đang đầu tư, có tới 15 dự án do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC cũng với tỉ lệ nội địa hóa 0%.
Hoặc hai dự án công nghiệp nhôm và bauxite hiện nay đều do Trung Quốc làm tổng thầu EPC với tỉ lệ nội địa hóa chỉ vỏn vẹn 2%. Viện Nghiên cứu Cơ khí trích dẫn Công ty Hatch của Úc cho rằng, Việt Nam có đủ năng lực thiết kế, chế tạo trong nước để đáp ứng 50% thiết bị trong ngành này.
Hiện tại, cả nước có ba nhà máy tuyển than, thì cả ba nhà máy này đều do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC, dù Việt Nam có thể hoàn toàn nội địa hóa được 50-70% giá trị thiết bị…
RFI : Làm sao mà tổng thầu EPC rơi vào tay người Trung Quốc quá nhiều như thế?
PCD : Lý giải về câu chuyện khó nói này, có thể thấy là nhiều dự án vốn đầu tư phải vay từ Trung Quốc, từ đó tạo ưu thế cho Trung Quốc đặt ra các điều kiện như phải mua thiết bị từ chính thị trường của họ. Thậm chí tôi cho rằng nếu phía Trung Quốc không “chủ động gợi ý” thì một số doanh nghiệp Việt Nam cũng quá hiểu là doanh nghiệp Trung Quốc có chế độ bao thư phong bì thuộc loại nặng nhất thế giới.
Về mặt kỹ thuật, Luật Đấu thầu Việt Nam chỉ ưu tiên giá rẻ mà không chú ý đến nguồn gốc xuất xứ, không ưu tiên đúng mức tỉ lệ nội địa hóa, do vậy hầu hết các dự án rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc. Khi đó, các nhà máy chế tạo của Việt Nam hầu như không có cơ hội tham gia như nhà thầu phụ.
Tình cảnh đáng nói là hiện nay Trung Quốc là nhà thầu lớn nhất của Việt Nam. Các gói thầu EPC do Trung Quốc thắng trong suốt 10 năm qua đã góp phần làm gia tăng nhanh chóng nhập siêu từ Trung Quốc.
RFI : Các cơ quan hữu quan của Việt Nam có giải pháp nào để khắc phục cả một “thập kỷ mất mát” ấy?
PCD : Thực ra người dân Việt Nam đã nghe quá nhiều giải pháp của quan chức Việt Nam. Còn bây giờ thì một lần nữa, giới quan chức này lại nêu ra quan điểm là đã đến lúc phải đa dạng thị trường, thúc đẩy sản xuất trong nước và cải cách ngành thương mại. Có lẽ bây giờ họ mới nhận ra rằng công nghiệp phụ trợ “của chúng ta” còn kém, thành ra phải nhập nhiều linh kiện, máy móc từ Trung Quốc, nên phải đẩy mạnh sản xuất linh kiện trong nước. Một quan chức còn hứa hẹn là nếu làm đúng như vậy, tối thiểu trong 2-3 năm, còn tối đa là 5 năm là có thể giảm phụ thuộc Trung Quốc về kinh tế.
Một quan điểm “hướng Tây” thì cho rằng cần “xoay trục” sang phát triển công nghiệp phụ trợ từ sự hỗ trợ của Nhật Bản, Hàn Quốc... Theo tôi, đáng lẽ vấn đề này đã phải thực hiện từ hàng chục năm trước, còn bây giờ thì đã quá muộn vì cái gọi là “công nghiệp phụ trợ” của Việt Nam đã phụ thuộc quá sâu vào Trung Quốc.
RFI : Trong một chỉ thị vào tháng 6/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu đa dạng hóa các thị trường xuất, nhập khẩu thay vì lệ thuộc vào một nền kinh tế cụ thể. Đó là nền kinh tế nào vậy?
PCD : Làm sao có thể nghĩ gì khác hơn ngoài Trung Quốc?
RFI : Bộ trưởng Giao thông Vận tải Đinh La Thăng cũng tuyên bố “sẽ không lệ thuộc vào nhà thầu Trung Quốc”. Nhưng thực tế cho thấy, số lượng nhà thầu Trung Quốc trúng thầu vẫn rất lớn ?
PCD : Có một thực tế : lĩnh vực xây dựng là không gian thông thoáng cho các cuộc đấu thầu mang tiếng là nhiều khuất tất, qua đó các doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu hơn 90% các công trình trọng điểm quốc gia trên các lĩnh vực xây dựng, năng lượng. Từ ngữ “lại quả” được du nhập vào Việt Nam chính là có nguồn gốc từ Trung Quốc. Lại quả đến độ bất chấp nhiều công trình của Trung Quốc luôn bị đội vốn, kéo dài thời gian và công nghệ lạc hậu, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn nhắm mắt chấp nhận.
Chỉ đến gần đây một chuyên gia phản biện mới hơi can đảm khi ẩn dụ trên mặt báo nhà nước: “Việc đánh giá thực trạng thương mại Việt – Trung theo tôi không quan trọng bằng việc nhìn thẳng vào thực tế ai được lợi từ các hoạt động kinh tế”.
RFI : Theo anh thì ai được lợi?
PCD : Chúng ta hãy lấy một trong những ví dụ tiêu biểu nhất và liên đới đậm đà nhất với Trung Quốc là trường hợp Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Mới đây, một tờ báo của Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam có tên là Đất Việt, và cũng là một trong những xung kích phản biện trong hệ thống truyền thông nhà nước, đã cùng với GS TS Đặng Đình Đào – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội – hé lộ một “bí mật quốc gia”: từ nhiều năm qua, EVN đã mua điện từ các doanh nghiệp Trung Quốc với giá gấp đến ba lần mức thông thường của doanh nghiệp Việt Nam.
Thậm chí, EVN mua điện của Trung Quốc với giá cao cả ở thời điểm nguồn cung cấp trong nước dồi dào, vin vào lý do vì hợp đồng mua điện với Trung Quốc được ký từ năm 2005 và chính thức mua điện từ 2009.
Thái độ kinh doanh bất chấp này đã bất chấp một thực tế là trong thời gian gần đây, nguồn điện trong nước được tăng cường nhiều hơn. Nhiều nhà máy điện ngoài EVN chưa huy động hết công suất, có thời điểm điện dư thừa, giá lại rẻ hơn nhiều giá điện Trung Quốc bán cho Việt Nam. Nhưng bởi lối hành xử đầy ngờ vực, EVN đã cố tâm mua điện trong nước với giá chỉ bằng 1/3 giá mua điện của Trung Quốc, kèm theo các điều kiện rất khắt khe, cho dù nhiều doanh nghiệp sản xuất điện của Việt Nam sẵn sàng chịu lỗ để hòa lưới điện.
Trong khi đó theo Viện Nghiên cứu Cơ khí, Việt Nam đủ năng lực làm tổng thầu, tỉ lệ nội địa hóa thành công đạt 30% về thủy điện. Minh chứng là đến nay, Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ thiết kế, chế tạo thiết bị cơ khí thủ công cho 30 nhà máy thủy điện bao gồm Sơn La, Lai Châu với tỉ lệ nội địa hóa đến 90%.
Song rất tiếc là tất cả cố gắng của doanh nghiệp Việt Nam đã bị một nhóm lợi ích và có thể cả một nhóm làm chính sách nào đó chặn đứng. Cuối cùng vẫn chẳng ai giải tỏa được mối nghi ngờ về sự hiện diện quá lớn của Trung Quốc trong ngành điện Việt Nam. Hoặc lý giải chuyện thiết bị Trung Quốc vốn bị coi là chất lượng kém, bãi rác công nghệ của thế giới nhưng vẫn tràn vào Việt Nam…
RFI : Vậy cuối cùng phải làm gì để thoát Trung?
PCD : Tôi lại xin nhường lời cho Ông Đặng Đình Đào – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển. Vị chuyên gia này đã nói thẳng là với tình trạng độc quyền như EVN hiện nay và thiếu minh bạch trong kinh doanh trên thị trường điện ở Việt Nam, trách nhiệm trong việc này trước hết là do chính cơ chế quản lý kiểu bộ chủ quản lâu nay không được thay đổi. Tiếp đó là các cơ quan quản lý nhà nước trong ngành điện, mà cụ thể là Bộ Công thương và cả EVN trong tổ chức và quản lý điện Việt Nam. Mấu chốt của vấn đề phải là nhanh chóng xóa bỏ tình trạng độc quyền của EVN, chấm dứt tình trạng một tay nắm cả mua bán, phân phối, điều độ…
Cứ cho là Chính phủ Việt Nam có một phần thật tâm muốn giảm sự lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, nhưng khuất tất lớn nhất là họ còn bị ràng buộc quá nhiều bởi các nhóm lợi ích như EVN. Còn những nhóm lợi ích này lại bị quy chiếu bởi Trung Quốc, từ những ích lợi hết sức mờ ám đến chủ nghĩa độc quyền và chủ nghĩa cực quyền. Do vậy chẳng có gì khó hiểu khi đã chưa hề, và có lẽ sẽ chẳng có nổi một động tác kiên quyết nào để đáp trả lại sự gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông.
Cuối cùng, chúng ta thấy rằng muốn chống ngoại xâm thì có lẽ việc đầu tiên phải là chống nội xâm. Không thể thoát Trung nếu không giải quyết bài toán thanh loại những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”.
RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Saigon đã vui lòng dành thì giờ trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ về vấn đề vì sao kinh tế Việt Nam quá khó khăn khi muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc.
Xuất khẩu nông sản: Bức bách “thoát Trung”
Hoàng Hà - Kim Thùy
Ảnh: Quý Hòa - Cú sốc virus corona càng bộc lộ sự phụ thuộc của ngành nông nghiệp Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.
00:00
Xuất khẩu nông sản: Bức bách “thoát Trung”
Dù được ngợi khen là nền kinh tế có độ mở nhất thế giới nhưng xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã chịu cú sốc lớn từ đại dịch virus corona chủng mới (COVID-19) từ Trung Quốc.
Mấy tuần qua, xuất khẩu nông sản Việt Nam đi Trung Quốc bị đình trệ, hàng trăm xe container chở nông sản ùn tắc tại cửa khẩu. Nông sản của các tỉnh Đồng Nai, Đồng Tháp, Bắc Giang, Hưng Yên... cũng dồn ứ và cần giải cứu. Ngành hàng đầu tiên chịu tác động là trái cây, bên cạnh sữa và thủy sản.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu nông sản trong quý I/2020 chỉ đạt khoảng 3 tỉ USD, bằng 84,3% so với cùng kỳ. Bộ Công Thương dự báo xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc có thể sẽ giảm từ 5-8% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhưng dự báo này dựa trên kịch bản là dịch COVID-19 được kiểm soát trong vòng chưa tới 3 tháng, tức là kịch bản lạc quan nhất.
Khó khăn dồn dập ngay từ quý I/2020 do virus có nguồn gốc từ Trung Quốc bùng phát khiến các chuyên gia lo ngại mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 300 tỉ USD của Việt Nam sẽ khó đạt được. Nền kinh tế Việt Nam quy mô chỉ khoảng 200 tỉ USD nhưng hàng hóa xuất nhập khẩu từ Trung Quốc tới gần 100 tỉ USD, bằng 1/2 GDP. Nói cách khác, mức độ phụ thuộc của kinh tế Việt Nam khá cao.
Lâu nay, vấn đề giảm phụ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc đã được đặt ra một cách quyết liệt nhưng liên tiếp diễn ra các đợt giải cứu dưa hấu, thanh long... cho thấy nông nghiệp Việt Nam vẫn lún sâu với thị trường 1,4 tỉ dân. Dòng xe ùn ứ tại cửa khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu lao đao từ dịch bệnh khiến quyết tâm “thoát Trung” của nông nghiệp Việt Nam càng phải cao vì thực tế... không còn đường lùi.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường nhận định: “Đây là cơ hội bức bách để Việt Nam tập trung tái cơ cấu nông nghiệp, liên kết chặt để chuỗi giá trị mở ra thị trường mới, không thể chỉ đưa sản phẩm thô, đi bán tươi rồi khi có rủi ro lại tập trung đôn đáo giải cứu”.
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, tính đến hết năm 2019, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 14 FTA đã ký kết và đi vào hiệu lực, 3 FTA đang đàm phán.
Các FTA này đã đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế có độ mở lớn và có quan hệ thương mại với 230 thị trường, trong đó có FTA với 60 nền kinh tế. Độ mở này tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng, tiếp cận thị trường toàn cầu, thay vì phụ thuộc vào một vài thị trường.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh cho rằng: “Chúng ta đã và đang chứng kiến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối nhanh trên một số thị trường đã ký kết FTA. Đơn cử như xuất khẩu vào Chile và Hàn Quốc tăng bình quân đến 29%/năm, nhất là thị trường Ấn Độ tăng trưởng bình quân đến 36%/năm, đưa Việt Nam từ vị thế một nước nhập siêu thành một nước xuất siêu vào Ấn Độ”.
Hiệp định CPTPP tuy mới có hiệu lực từ giữa tháng 1.2019 nhưng cũng giúp xuất khẩu của Việt Nam vào một số thị trường nội khối như Canada tăng 28,2%, đạt 3,86 tỉ USD, Mexico tăng 26,8%, đạt 2,84 tỉ USD và Việt Nam tiếp tục xuất siêu vào thị trường CPTPP. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) vừa được thông qua sẽ là cơ hội cho Việt Nam mở được cánh cửa lớn vào thị trường EU, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản như thanh long, xoài, chôm chôm, bưởi, sầu riêng... “Điều quan trọng, khi có những hiệp định thương mại tự do như vậy, xuất khẩu có thể giảm bớt sự phụ thuộc vào một khu vực thị trường nhất định, đa dạng hóa được thị trường xuất khẩu trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn”, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh nhấn mạnh.
Năm 2019, Việt Nam đã có 32 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD, 6 mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỉ USD chiếm tỉ trọng gần 93% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Nếu như số mặt hàng lớn mà đẩy lên được thì tổng kim ngạch xuất khẩu rất đáng kể. Nhưng muốn vậy, bài toán xuất khẩu “thoát Trung” là rất quan trọng. Có nhiều ngành đã tìm được hướng ra như xuất khẩu gạo. Bà Bùi Thị Thanh Tâm, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Lương thực miền Bắc, cho biết: “Cách đây 5, 6 năm, Trung Quốc là thị trường rất lớn nhưng nay Việt Nam đã mở rộng ra nhiều thị trường khác nhau nên giá trị nhập khẩu của thị trường này cũng không còn quá chi phối ngành hàng gạo nữa”.
Tất nhiên, để giảm sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc có lẽ Việt Nam cần nhiều thời gian. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể chậm hơn nếu không muốn các rủi ro tương tự diễn ra. Để đẩy nhanh tốc độ đa dạng thị trường này, Nhà nước xem xét tạo điều kiện về chính sách, lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp chuyển hướng mua thiết bị để sản xuất, chế biến sâu, phát triển sản phẩm mới.
Những thảm họa nhân loại do Ý thức hệ Mác-Lê gây ra
Luật sư Đào Tăng Dực (Danlambao) - Trong kỷ nguyên tin học đương đại, tội ác của các đảng cộng sản không còn là một bí mật hay ẩn dụ, ngay cả đối với những người dân đang sống dưới sự cai trị độc tài hoặc bưng bít thông tin của các đảng cộng sản như Cuba, Trung Quốc hay Việt Nam.
Hằng chục triệu người nông dân Kulak bị Stalin tiêu diệt trong các thập niên 30 hầu thực thi sách lược hợp tác xã hóa nông nghiệp của đảng CSLX. Thảm nạn Chernobyl tại Ukraine hoặc ô nhiễm phóng xạ vùng Bắc Cực rộng lớn của Liên Bang Xô Viết vì sự vô trách nhiệm, tự tung tự tác của độc tài toàn trị, không một quyền lực nào đối trọng.
Hằng chục triệu người Trung Quốc cũng bỏ mình trong chiến dịch đấu tố giai cấp hoặc cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Mao Trạch Đông.
Hằng trăm ngàn người dân Việt bị hành quyết trong cuộc cải Cách Ruộng Đất tại Việt Nam do Hồ Chí Minh chủ trương từ 1945 đến 1956.
Ý Thức Hệ Mác Lê, qua các đảng cộng sản toàn trị trở thành thảm họa cho dân tộc họ thống trị vì các nguyên nhân sau đây:
1. Ý thức hệ Mác Lê không chấp nhận đối lập chính trị. Từ đó đảng phát huy sự vị kỷ vô giới hạn hầu bảo vệ lòng tham vô giới hạng của giai cấp lãnh đạo;
2. Lòng tham vô giới hạn của đảng chỉ có thể duy trì qua sự kiểm soát chặt chẽ tất cả mọi thông tin;
3. Hầu giới hạn ảnh hưởng quốc tế từ các quốc gia dân chủ có thể làm lung lay quyền lực của mình, các đảng CS minh thị chủ trương rằng “chủ quyền quốc gia” có thể phủ quyết mọi giá trị nhân quyền căn bản của người dân.
Từ đó, nhân dân của các quốc gia bị CS cai trị trở thành những tù nhân chung thân (như trường hợp Trung Quốc, Cuba hay Việt Nam) bị các đảng CS liên hệ giam giữ và bóc lột, hoặc tệ hơn là đàn gia súc (như tại Triều Tiên) bị đảng CS Bắc Triều Tiên và gia đình Kim Nhật Thành nhốt trong một trại súc vật khổng lồ không thấy ánh mặt trời.
Tuy nhiên, ngày hôm nay với sự phát triển và tính tương tùy của nền kinh tế toàn cầu, những thảm họa do những định chế chính trị độc tài toàn trị, trong một quốc gia, không nhất thiết chỉ tai hại cho quốc gia đó, mà sẽ tai hại cho toàn thể nhân loại.
Thật vậy, vào năm 2003 Đại dịch viêm phổi cấp tính (SARS) cũng phát xuất từ Trung Quốc đã vượt lên trên biên giới quốc gia, lan tận Âu Châu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Á Châu, nhiễm bệnh khoảng 8000 người và gây tử vong cho 800 nạn nhân.
Một trong những nguyên nhân tử vong lúc đó là sự bưng bít thông tin hầu bảo vệ quyền lực và quyền lợi của đảng CSTQ.
Ngày hôm nay, Đại dịch Vũ Hán Covid-19 với mức độ lan tràn chớp nhoáng hơn, cũng đã trở thành một đại nạn cho toàn thể nhân loại, vượt lên trên biên giới của Trung Quốc và đang tàn phá tính mạng, con người cũng như nền kinh tế toàn cầu.
Nguyên nhân của tình trạng tệ hại này, trên bình diện cơ chế chính trị, rõ ràng phát xuất từ bản chất độc tài độc đoán của hệ thống chính trị và mô hình nhà nước Mác- Lê.
Từ khi con vi khuẩn Vũ Hán làm tê liệt Bộ Chính Trị và Hải lục không quân đàn anh TQ, đảng CSVN không có phải nhức đầu vì những chuyến thăm viếng bất ngờ của Giàn Khoan Hải Dương 981, hoặc các chiến hạm “nước lạ” đe dọa hải phận nước ta, hoặc tàu sân bay Liêu Ninh tập trận tại Biển Đông, và các chiến hạm TQ không còn gây hấn với các chiến hạm Hoa Kỳ đang thực thi sách lược tự do hàng hải tại vùng biển này.
Đặc biệt trong giai đoạn đàn anh Tập Cận Bình đang vật lộn với con vi khuẩn Covid-19 thì TBT kiêm CTN Nguyễn Phú Trọng hầu như biến mất khỏi chính trường. Nhân dân nước Việt không còn bị tra tấn bởi những phát ngôn cười ra nước mắt “Trà Trung Quốc Ngon hơn Trà Việt Nam” hoặc những khoe khoan lố bịch về đảng CSVN như "Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên", theo lời của Nguyễn Phú Trọng ngày 3 tháng 2 vừa qua, nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày thành lập đảng CSVN.
Chỉ vài ngày sau đó con vi khuẩn quái ác Covid-19 này đã làm Nguyễn Phú Trọng tắt tiếng.
Tuy nhiên, con vi khuẩn đó không hề phân biệt chủ nghĩa chính trị, biên giới quốc gia hoặc chủng tộc. Đất nước Việt Nam giáp giới với TQ và sự lệ thuộc ý thức hệ cũng như kinh tế của đảng CSVN vào CSTQ là một nguy cơ diệt chủng đối với dân tộc Việt Nam.
Sự sống còn của Việt Tộc hầu như lệ thuộc vào sự hủy diệt vĩnh viễn không còn hồi sinh của trật tự chính trị Mác-Lê vốn đặt căn bản trên độc tài toàn trị và sự bưng bít thông tin.
Bài học lớn chúng ta rút ra từ Đại dịch Vũ Hán này là: Sự tranh đấu quyết liệt, hầu đưa đến cáo chung vĩnh viễn của các đảng CS Cuba, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, đã trở thành một mệnh lệnh của lịch sử cho toàn thể nhân loại, không chỉ giới hạn nơi nhân dân của các quốc gia bị cộng sản thống trị.
Chỉ khi con vi khuẩn Ý Thức Hệ Mác Lê bị nghiền nát vĩnh viễn không còn siêu sinh dưới bất cứ hình thức nào và một trật tự dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên được xây dựng tại các quốc gia bất hạnh nêu trên, thì nhân loại mới tránh được những thảm họa diệt vong tương tự.
Chuyện thoát Trung của dân tộc thời nhà Minh đô hộ
Hồ Bạch Thảo
Về phương diện lịch sử, thoát Trung còn có nghĩa là thoát khỏi ách xâm lược của Trung Quốc. Tạm không đề cập đến “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu” (1) thời xa xưa, chỉ ôn lại cuộc đô hộ của nhà Minh cách đây hơn 600 năm; kể từ năm 1406 khi Trương Phụ hành quân đến Kỳ La, Hà Tĩnh, bắt cha con Hồ Quí Ly đưa về Kim Lăng [Nam Kinh, Trung Quốc]; cho đến năm 1427, sau khi Liễu Thăng tử trận tại Chi Lăng, Vương Thông phải điều đình xin dẫn quân từ thành Đông Đô [Hà Nội] trở về nước.
Suốt 21 năm đô hộ, chính quyền Trung Quốc cai trị nước ta, mối ân oán như thế nào; người dân Việt chúng ta, nhất là các bạn trẻ cần hiểu rõ. Để khỏi mang tiếng là vu cáo cho người, tư liệu chúng tôi sử dụng phần lớn lấy từ hai bộ sử lớn Trung Quốc: Minh Thực Lục và Thiên Hạ Quận Quốc Lợi Bệnh Thư của Cố Viêm Vũ. Sau đây xin nêu lên những việc làm chính của nhà Minh:
1. Đổi tên nước và các đơn vị hành chánh
Bắt đầu việc cai trị, nhà Minh cho đổi tên tại nước ta hàng loạt. Về quốc hiệu, kể từ thời vua Lý Thánh Tông [1054] nước ta có tên là Đại Việt; nhà Tống [Trung Quốc] đặt tên là An Nam; nhưng đến đời Minh đô hộ tên nước Đại Việt không được dùng, ngay cả tên An Nam cũng cấm; chỉ được phép dùng tên Giao Chỉ thời ngàn năm đô hộ.
Thành phố Thăng Long [Hà Nội] do vua Lý Thái Tổ dời đô và đặt tên vào năm 1010, lúc bấy giờ bị đổi tên là thành Giao Chỉ.
Lại đổi thêm mấy chục tên phủ, huyện; phần lớn những tên này hàm nghĩa đề cao chủ quyền quốc gia. Như đổi phủ Quốc Oai thành Oai Man; từ nghĩa oai quyền quốc gia, thành nghĩa ra oai với dân man di, v.v..
Thời Trần, Hồ đất nước ta chia thành lộ, trấn; lúc bấy giờ đổi ra thành 15 phủ, các phủ gồm: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến Bình, Tân An, Kiến Xương, Phụng Hóa, Thanh Hóa, Trấn Man, Lạng Sơn, Tân Bình, Diễn Châu, Nghệ An, Thuận Hóa. Mỗi phủ lại chia thành châu và huyện; như phủ Thanh Hóa bị chia thành 3 châu: Thanh Hóa, Ái, Cửu Chân, và 19 huyện.
2. Đặt các vệ, sở, ty tuần kiểm để cai trị và trấn áp
Về mặt quân sự nhà Minh bố quân khắp các phủ huyện để sẵn sàng đánh dẹp các cuộc nổi dậy, cứ tỉnh lớn đóng 1 vệ, tương đương với lữ đoàn; tỉnh nhỏ đóng 1 sở, tương đương với trung đoàn. Ngoài ra khắp nước đặt trên 100 ty tuần kiểm để kiểm soát dân chúng; cho đóng tại các nơi quan trọng để kiểm tra sự đi lại, hàng hoá, lương thực. Dọc theo bờ biển, các cửa sông đều đặt ty tuần kiểm; ví như tại 2 tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng ngày nay, cho đặt tại các cửa sông Bạch Đằng, cửa Cấm, Đồ Sơn, Văn Úc, Thái Bình, v.v..
3. Dùng các tôn giáo học thuyết, để mê hoặc và kiểm soát dân chúng
Lập ty Tăng cang, Tăng đạo để thu hút tín đồ Phật Giáo; ty Đạo kỷ thu hút người tin Lão Tử, lập ty Nho học để lôi kéo người tin Khổng Tử; ty Âm dương để lôi kéo người theo thuyết Âm dương, v.v..
4. Khai mỏ khoáng
Nhà Minh lấy đất của dân lập đồn điền, bắt lính chia phiên canh tác. Về khoáng sản khai thác đủ các loại; riêng về vàng lập cục khai mỏ tại 7 trấn, văn bản trong Minh Thực Lục chép như sau:
Ngày 19 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 6 [15/2/1408]
Lập cục khai mỏ vàng tại 7 trấn: Thái Nguyên, Gia Hưng, Quảng Oai, Thiên Quan, Vọng Giang, Lâm An, Tân Ninh; đặt Đại sứ 2 viên, Phó sứ 4 viên; lại tuyển tri châu, tri huyện 21 viên; mỗi trấn 3 viên Đề đốc Áp biện; lại dùng 2 viên Tổng đốc tại phủ. Sai bộ Lễ đúc ấn ban cấp.
Minh Thực Lục v.11, tr. 1032; Thái Tông q. 75, tr. 2b
Riêng về công trường muối được thiết lập khắp nơi, nhưng tại cửa Đan Thai tức cửa Hội thuộc huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay, tổ chức có vẻ qui mô hơn:
Ngày 14 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 15 [23/10/1417]
Thiết lập tại phủ Nghệ An, Giao Chỉ kho Quảng Tích. Tại cửa biển Đan Thai, huyện Nha Nghi [Nghi Xuân] lập ty Tuần kiểm; ty Đề cử muối, gồm 5 kho muối: Bác Tế, Quảng Tế, Viễn Tế, An Tế, Diễn Tế; cùng 3 công trường muối: Nam Giới, Chân Phúc, Thiên Đông.
Minh Thực Lục v. 13, tr 2028; Thái Tông q. 192, tr. 4b
Trong khi dân địa phương không có muối ăn, thì số lượng muối sản xuất được đưa về Trung Quốc, hoặc chuyển sang Lão Qua để đổi lấy vàng.
5. Lập thêm tuyến đường giao thông về Trung Quốc
Với của cải bóc lột vơ vét nhiều, con đường từ thành Đông Đô [Hà Nội] lên biên giới phía bắc, theo sông Tả Giang đến Nam Ninh, Quảng Tây, vận chuyển không xuể. Tổng binh Trương Phụ bèn xin thiết lập tuyến giao thông mới, đại để từ Quảng Tây đến châu Khâm, Trung Quốc, rồi qua lãnh thổ nước ta. Khi vào lãnh hải, chạy dọc theo ven biển tỉnh Quảng Ninh, rồi vào sông Bạch Đằng, rẽ qua sông Kinh Thầy; theo sông Đuống đến huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cuối cùng đến thành Đông Đô [Hà Nội].
Nguyên văn về việc lập tuyến giao thông mới, ghi lại trong Minh Thực Lục như sau:
Ngày 19 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 14 [14/6/1416]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Anh quốc công Trương Phụ tâu rằng từ trạm dịch Thiên Nhai thuộc châu Khâm, tỉnh Quảng Đông qua cảng Miêu Vĩ đến Thông Luân, Phí Đào theo ngã huyện Vạn Ninh đến Giao Chỉ phần lớn do đường thủy, đường bộ chỉ có 291 dặm. Đường cũ bắc Khâu Ôn [tỉnh Lạng Sơn] gần Thất Dịch; nên lập cả trạm đường thủy và trạm ngựa để tiện việc đi lại. Thiên tử chấp thuận.
…Rồi cho lập 2 trạm đường thủy tại Phòng Thành và Phật Đào tại châu Khâm tỉnh Quảng Đông; lập 3 sở chuyển vận tại Ninh Việt, Dõng, Luân; lập ty tuần kiểm tại Phật Đào; lập 2 trạm mã dịch tại Long Môn, An Viễn huyện Linh Sơn, lập 2 sở chuyển vận tại An Hà, Cách Mộc.
Tại huyện Đồng Yên [đông bắc tỉnh Quảng Ninh], châu Tĩnh An, Giao Chỉ, lập trạm dịch đường thủy cùng sở chuyển vận tại Đồng Yên; lập trạm dịch đường thủy cùng sở chuyển vận tại Vạn Ninh, huyện Vạn Ninh [huyện Đầm Hà, Quảng Ninh]; lập 3 trạm dịch đường thủy tại Tân Yên thuộc huyện Tân Yên [huyện Tiên Yên, Quảng Ninh], Yên Hòa thuộc huyện Yên Hòa [huyện Yên Hưng, Quảng Ninh] và Đông Triều thuộc châu Đông Triều [Quảng Ninh]; lập trạm dịch đường thủy cùng sở vận chuyển tại Bình Than, huyện Chí Linh [tỉnh Hải Dương]; lập trạm dịch đường thủy tại Từ Sơn, thuộc huyện Từ Sơn [tỉnh Bắc Ninh]
Minh Thực Lục v.13, tr. 1927; Thái Tông q. 176, tr. 3a
6. Đàn áp dã man các phong trào chống đối
Không đi sâu chi tiết về bọn thuộc hạ, riêng viên tổng chỉ huy quân Minh là Anh Quốc Công Trương Phụ đã gây những tội ác lớn.
Trong khi đàn áp cuộc nổi dậy của Nguyễn Sư Cối tại xã Nghi Dương, huyện An Lão, châu Đông Triều [Hải Phòng]; Trương Phụ ra lệnh chém hơn 2.000 người bị bắt, xây xác lên gọi là “kinh quan” tạo thành mồ tập thể, nhằm răn đe dân chúng:
Ngày 9 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 8 [12/2/1410]
…Đến ngày hôm nay Trương Phụ cho vây xã Nghi Dương, bọn giặc chống cự, quan quân phấn khởi bắn tên đá như mưa, khiến giặc thua to. Chém hơn 4500 thủ cấp, chết trôi nhiều; bắt sống ngụy Giám Môn Tướng quân Phạm Chi, ngụy Vũ Lâm Vệ Tướng quân Trần Nguyên Khanh, ngụy Trấn Phủ sứ Nguyễn Nhân Trụ hơn 2000 tên, bèn chém xây xác chôn thành mồ kinh quan để thị chúng.
Minh Thực Lục q. 100, t .1303
Lại kể thêm tội ác lớn của bọn Trương Phụ, trong cuộc đánh phá tàn quân của vua Trùng Quang tại huyện Chính Hòa, phủ Tân Bình; địa điểm tương đương với huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình ngày nay. Trong cuộc giao tranh, Nguyễn Cảnh Dị bị thương, quân Minh bắt được, bèn đem róc thịt cho đến chết. Riêng anh em Đặng Dung bị bắt đem về Trung Quốc xử chém.
Ngày 17 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 12 [7/2/1912]
…Giặc chống không nổi, tên bắn liên tiếp trúng, Cảnh Dị bị thương tại sườn, bắt được. Đặng Dung trốn, Phương Chính mang quân truy lùng bắt cùng với em là Đặng Nhuệ; lại bắt hết bọn giặc Lê Thiềm, tịch thu ấn ngụy của Cảnh Dị. Cảnh Dị bị thương nặng, bị róc thịt, mang thủ cấp áp giải cùng anh em Đặng Dung đến kinh đô; tất cả đều bị xử chém để làm răn.
Minh Thực Lục q. 147, t. 1727-1728
*
Là một dân tộc quả cảm, dân Việt đã vùng lên với 64 cuộc nổi dậy, khởi đầu liên tiếp từ năm 1407 cho đến năm 1424. Tư liệu về 64 cuộc nổi dậy, được Tiến sĩ Trịnh Vĩnh Thường, Giáo sư đại học Đài Loan, lập biểu liệt kê trong tác phẩm nghiên cứu chiến tranh Hoa Việt dưới thời nhà Minh, nhan đề: Chinh Chiến Dữ Khí Thủ: Minh Đại Trung Việt Nghiên Cứu (Đánh, bỏ cuộc, hay giữ: nghiên cứu Trung Việt thời Minh) (2). Sáu mươi tư cuộc khởi nghĩa là bằng chứng hùng hồn nhất về nỗ lực “Thoát Trung” của dân tộc ta.
Hồ Bạch Thảo Đăng lại từ bài viết cùng tên Đăng trên forum Diễn Đàn (Diendan.org)
Chú thích:
(1) Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu : trích từ bài hát Gia Tài Của Mẹ của Trịnh Công Sơn.
(2) Trịnh Vĩnh Thường, Chinh Chiến Dữ Khí Thủ: Minh Đại Trung Việt Nghiên Cứu, Đài Loan thị: Quốc Lập Thành Công Đại Học xuất bản, 1998.
Mời độc giả quan tâm xem phụ lục về 64 cuộc khởi nghĩa tại cuối bài viết trên forum Diễn Đàn. Truy cập tại đây.