Nâng tầm đóng góp XHCN Việt Nam cho chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu, văn minh nhân loại
25.08.2025 14:48
Tổng Bí thư Tô Lâm: Nâng tầm đóng góp của Việt Nam cho nền chính trị, kinh tế thế giới, nền văn minh nhân loại
V.N
Thứ hai, ngày 25/08/2025 13:54 GMT+7
Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ, nâng tầm đóng góp của Việt Nam cho nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, cho hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới. Dân Việt
Tổng Bí thư Tô Lâm trao tặng Huân chương lao động Hạng nhất cho Bộ Ngoại giao. Ảnh: Nguyễn Hải.
Sáng 25/8, tại lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập ngành ngoại giao Việt Nam, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã trao tặng Bộ Ngoại giao danh hiệu Huân chương Lao động hạng Nhất vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc, đột xuất trong công tác tham mưu, triển khai các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc từ năm 2023 đến năm 2025.
Phát biểu tại Lễ Kỷ niệm, Tổng Bí thư nêu rõ, nhìn lại chặng đường 80 năm qua, chúng ta mãi khắc ghi sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn sáng suốt của Đảng, công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tri ân các thế hệ đi trước đã đổ mồ hôi, xương máu và trí tuệ trên mặt trận không tiếng súng song hết sức vẻ vang này; cảm ơn bạn bè quốc tế đã đồng hành; trân trọng đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài luôn là hậu phương vững chắc của đối ngoại, ngoại giao.
Thay mặt Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Tổng Bí thư nhiệt liệt biểu dương và chúc mừng những thành quả, đóng góp xuất sắc của ngành ngoại giao; đồng thời kỳ vọng toàn ngành Ngoại giao tiếp tục đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, lập nên nhiều thành tích, thành tựu mới, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tổng Bí thư Tô Lâm trao tặng Huân chương lao động Hạng nhất cho Bộ Ngoại giao. Ảnh: Nguyễn Hải.
Tổng Bí thư chỉ rõ, truyền thống, thành tựu và lịch sử 80 năm vẻ vang đã để lại cho Ngoại giao Việt Nam những bài học lớn, còn nguyên giá trị đến hôm nay và cả mai sau. Đó là sự kết tinh của lý luận và thực tiễn cách mạng, đã tôi luyện nên bản lĩnh của một nền ngoại giao trưởng thành ngày nay. Bài học về kiên định lợi ích quốc gia - dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược; lấy nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược làm cơ sở của Ngoại giao; xây dựng đội ngũ cán bộ là then chốt của then chốt; gắn ngoại giao với lòng dân.
Ngoại giao Việt Nam đang đứng trước sứ mệnh lịch sử. Tổng Bí thư Tô Lâm đề nghị ngành Ngoại giao tập trung vào một số định hướng: Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, mang đậm bản sắc Việt Nam; toàn diện trên cả ba trụ cột: Đối ngoại Đảng - ngoại giao Nhà nước - đối ngoại nhân dân; kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa và thông tin đối ngoại; hiện đại về tư duy, phương pháp, công cụ: Thực hiện chuyển đổi số ngoại giao, phân tích dữ liệu lớn, ngoại giao số - công dân số - truyền thông số; chuẩn hóa các quy trình, tiêu chuẩn ngoại giao.
Tổng Bí thư cũng yêu cầu nganhỳ ngoại giao cần chuyên nghiệp về con người, tổ chức, kỷ luật thực thi; văn hóa ứng xử, nghệ thuật đàm phán, kỹ năng đa phương ngang tầm khu vực và toàn cầu.
Cần phát huy bản sắc ngoại giao Việt Nam: Kiên định về nguyên tắc, uyển chuyển về sách lược, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Không ngừng nâng cao vị thế đất nước đi đôi với tôn vinh giá trị của hòa bình, đề cao chủ nghĩa nhân văn cao cả và tích cực đóng góp có trách nhiệm đối với giá trị chung của nhân loại và cộng đồng quốc tế.
Góp phần thắp sáng niềm tin về một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển
Tổng Bí thư yêu cầu, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.Tổng Bí thư chỉ rõ, nâng tầm đóng góp của Việt Nam cho nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, cho hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Chủ động, tích cực, đề xuất sáng kiến tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực; vươn lên đảm nhiệm vai trò nòng cốt, dẫn dắt tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể.
Góp phần tăng cường điểm đồng, thu hẹp khác biệt, đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động, tích cực cùng các nước đóng góp xây dựng trật tự chính trị, kinh tế thế giới công bằng, bình đẳng, dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Phát huy vai trò tiên phong, sẵn sàng đi đầu trong những lĩnh vực ưu tiên, thuộc lợi ích thiết thực của đất nước, đặc biệt là ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, chuyển giao công nghệ.
Tham gia chủ động, có trách nhiệm vào việc giải quyết các vấn đề chung của khu vực, thế giới. Hài hòa giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với nghĩa vụ quốc tế; tăng cường đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, cứu trợ nhân đạo… Đổi mới mạnh mẽ công tác ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại, góp phần nâng tầm, củng cố sức mạnh mềm của đất nước, quảng bá hình ảnh, bản sắc và giá trị Việt Nam, làm phong phú thêm cho văn minh nhân loại.
Tổng Bí thư lưu ý, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại. Để làm được điều đó, cần tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu, đổi mới tư duy và cách tiếp cận về văn hoá tham mưu theo hướng thẳng thắn, trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích quốc gia - dân tộc.
Xây dựng hệ sinh thái nghiên cứu đối ngoại: Kết nối các trung tâm nghiên cứu mạnh trong và ngoài nước, học giả kiều bào, doanh nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, nhất là Trí tuệ nhân tạo trong công tác nghiên cứu, tham mưu; phát triển trung tâm phân tích dữ liệu chiến lược. Hoàn thiện cơ chế cảnh báo sớm, kịch bản hóa rủi ro địa - kinh tế - công nghệ; đề xuất phương án ứng phó kịp thời, khả thi.
Dành đủ nguồn lực cho đối ngoại
Tổng Bí thư căn dặn, xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao "vừa hồng, vừa chuyên", đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới. Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị, chuyên môn pháp lý quốc tế, ngôn ngữ - văn hóa đối tác, kỹ năng ngoại giao đa phương, ngoại giao số, ngoại giao công chúng.
Dành đủ nguồn lực cho đối ngoại tương xứng với thế và lực mới của đất nước để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần để cán bộ ngoại giao yên tâm cống hiến. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Chú trọng xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh trong toàn ngành. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành và địa phương, nhất là quốc phòng, an ninh, tạo "thế chân kiềng" vững chắc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; đồng thời góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, trải qua những biến động của thời cuộc, ngoại giao Việt Nam đã không ngừng vươn lên, khẳng định bản lĩnh một dân tộc yêu chuộng hòa bình, khát vọng phát triển, bản lĩnh và khôn khéo trong ứng xử đối ngoại. Chúng ta có quyền tự hào rằng: Ngoại giao Việt Nam không chỉ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mà còn góp phần thắp sáng niềm tin về một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển.
Tổng Bí thư tin tưởng, Ngoại giao Việt Nam - với bản lĩnh, trí tuệ, khí phách và cốt cách của con người Việt Nam kỷ nguyên mới - sẽ tiếp tục là lực lượng tiên phong, nòng cốt với các trọng trách vinh quang: Tạo lập và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, tiên phong kết nối hợp tác, khơi mở và thu hút nguồn lực phát triển, không ngừng nâng cao vị thế đất nước.
Hành trình của bản lĩnh, trí tuệ, lòng trung thành son sắt
Tổng Bí thư Tô Lâm, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng Nhà, nước và các đại biểu dự Lễ kỷ niệm. Ảnh: TTXVN.
Đọc diễn văn tại Lễ Kỷ niệm, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh, cách đây tròn 80 năm, giữa thời điểm trọng đại của dân tộc khi đất nước giành lại độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời và trực tiếp đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên.
Từ phút khởi đầu ấy, ngành Ngoại giao Việt Nam đã mang sứ mệnh cao cả – là “binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam” trên mặt trận không tiếng súng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, gắn kết dân tộc ta với bạn bè năm châu vì lý tưởng hòa bình, công lý và nhân văn.
Ngoại giao 80 năm qua là hành trình của bản lĩnh, trí tuệ và lòng trung thành son sắt với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; là những cuộc đàm phán căng thẳng trong khói lửa chiến tranh; là những bước đi dũng cảm phá thế bao vây, cô lập, mở rộng cánh cửa hội nhập; là nỗ lực cao nhất để bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia – dân tộc; là sự có mặt đúng lúc, đúng chỗ trong từng thời điểm lịch sử quan trọng.
Được thử thách, trui rèn trong thực tiễn vào những thời điểm đất nước phải đối mặt với muôn ngàn khó khăn, chặng đường 80 năm qua đã qua chứng kiến sự trưởng thành và những nỗ lực vượt bậc của nền Ngoại giao cách mạng Việt Nam. Ngành Ngoại giao đã lập nên nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhờ đó, ngành Ngoại giao vinh dự được Nhà nước hai lần trao tặng Huân chương Sao vàng, một lần trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương, danh hiệu cao quý khác.
Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khẳng định, tiếp nối truyền thống vẻ vang của các thế hệ đi trước, thế hệ cán bộ ngoại giao ngày nay xin hứa với Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, nhân dân và đồng chí Tổng Bí thư sẽ quyết tâm làm hết sức mình, vượt qua mọi khó khăn để tiếp tục phát huy lịch sử hào hùng của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, góp phần thực hiện hai mục tiêu 100 năm của đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc của dân tộc.
Tại Lễ kỷ niệm, các đồng chí nguyên lãnh đạo Bộ Ngoại giao và đại diện thế hệ trẻ Bộ Ngoại giao đã bày tỏ tin tưởng, với truyền thống 80 năm và với những kinh nghiệm cùng những bài học lịch sử quý báu, ngành Ngoại giao sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu của đất nước; đồng thời mong muốn tiếp tục phát huy truyền thống xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
🧨 Phản Biện: Khi Việt Nam Tự Định Vị Mình Trong Nền Văn Minh Nhân Loại
Trong thế kỷ 21 – thời đại của trí tuệ nhân tạo, dân chủ kỹ thuật số và toàn cầu hóa – thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ hoặc cải cách sâu rộng của nhiều chế độ cộng sản từng thống trị. Chủ nghĩa cộng sản, vốn bị lên án bởi nhiều học giả và tổ chức nhân quyền vì những di sản đàn áp, diệt chủng và kiểm soát tư tưởng, đã gần như biến mất khỏi bản đồ chính trị thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn kiên định giữ vững mô hình này, như một trong số ít quốc gia còn duy trì chế độ độc đảng cộng sản.
Trong lễ kỷ niệm 80 năm ngành ngoại giao, Tổng Bí thư Tô Lâm tuyên bố rằng Việt Nam đang “nâng tầm đóng góp cho nền chính trị, kinh tế thế giới và nền văn minh nhân loại”. Nhưng câu hỏi đặt ra là: đóng góp ấy mang hình hài gì, và liệu có thực sự phù hợp với những giá trị phổ quát của nhân loại – như tự do, nhân quyền, và dân chủ?
⚖️ Những nghịch lý đáng suy ngẫm:
Tự do báo chí và ngôn luận: Việt Nam thường xuyên bị xếp hạng thấp trong các bảng xếp hạng tự do báo chí toàn cầu. Những tiếng nói phản biện, nhà báo độc lập, và người bất đồng chính kiến vẫn bị bắt giữ hoặc kiểm soát gắt gao.
Thờ phụng Đảng thay vì tổ tiên: Trong khi nhiều quốc gia tôn vinh truyền thống, tín ngưỡng và đa dạng văn hóa, Việt Nam lại có xu hướng đặt biểu tượng Đảng lên trên các giá trị dân tộc, đôi khi lấn át cả tín ngưỡng tổ tiên – một nghịch lý trong xã hội Á Đông vốn coi trọng đạo hiếu.
Vị thế quốc tế: Dù Việt Nam đã mở rộng quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, việc duy trì chế độ độc đảng khiến quốc gia này khó được nhìn nhận như một hình mẫu dân chủ hay biểu tượng của tiến bộ nhân loại.
Đánh Thức Lương Tri Người Việt Trong Thế Kỷ 21
Kính thưa đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước,
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà thế giới thay đổi từng ngày, từng giờ. Công nghệ bứt phá, tư tưởng khai phóng, nhân quyền được tôn vinh, và dân chủ trở thành nền tảng của tiến bộ. Nhưng giữa dòng chảy ấy, dân tộc Việt Nam – với hơn 4.000 năm văn hiến – lại đang đứng trước một nghịch lý đau lòng: chúng ta vẫn đang bị trói buộc bởi một mô hình chính trị lỗi thời, một hệ tư tưởng đã bị lịch sử lên án, và một bộ máy quyền lực không xuất phát từ lá phiếu của nhân dân.
🧠 Lương tri không thể ngủ yên
Lương tri là tiếng nói bên trong mỗi con người – tiếng nói của sự thật, của công lý, của khát vọng tự do. Nhưng lương tri ấy đã bị ru ngủ quá lâu bởi những khẩu hiệu sáo rỗng, những bài học lịch sử bị bóp méo, và một nền giáo dục không khuyến khích tư duy phản biện. Đã đến lúc chúng ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức để thấy rằng:
Tự do không phải là đặc ân, mà là quyền thiêng liêng.
Yêu nước không đồng nghĩa với phục tùng tuyệt đối.
Phản biện không phải là phản động, mà là biểu hiện của trí tuệ và trách nhiệm.
🔥 Dân tộc không thể tiến bộ nếu tư tưởng bị giam cầm
Chúng ta không thể xây dựng một xã hội văn minh nếu người dân không được quyền chọn lãnh đạo, không được quyền lên tiếng, và không được quyền mơ ước một tương lai khác. Một đất nước mà người viết bị bắt, người nói bị kiểm duyệt, và người suy nghĩ bị đe dọa – đó không phải là đất nước của Hồ Chí Minh, của Trần Hưng Đạo, hay của Nguyễn Trãi. Đó là một phiên bản méo mó của lý tưởng dân tộc.
🌏 Việt Nam phải là một phần của thế giới tiến bộ
Thế giới không chờ đợi chúng ta. Các quốc gia từng là đồng minh ý thức hệ của Việt Nam đã cải cách, đã dân chủ hóa, và đã vươn lên. Chúng ta không thể mãi là một trong số ít quốc gia còn giữ chế độ cộng sản – như một bảo tàng sống của sự bảo thủ. Nếu chúng ta thực sự yêu nước, thì phải dám nhìn thẳng vào sự thật, dám đặt câu hỏi, và dám đòi hỏi thay đổi.
✊ Hãy đứng dậy, hãy lên tiếng
Tôi kêu gọi mọi người Việt Nam – trí thức, nông dân, công nhân, doanh nhân, sinh viên – hãy đánh thức lương tri của mình. Hãy hỏi: đất nước này có thực sự thuộc về nhân dân không? Hãy đòi hỏi một xã hội nơi tiếng nói của bạn được lắng nghe, nơi con cháu bạn được sống trong tự do, và nơi tổ tiên bạn được tôn vinh đúng nghĩa – không phải bằng khẩu hiệu, mà bằng hành động.
Lịch sử không tha thứ cho sự thờ ơ. Tổ quốc không thuộc về những kẻ im lặng. Và tương lai không dành cho những ai chấp nhận sống trong bóng tối.
Việt Nam phải thay đổi. Và sự thay đổi ấy bắt đầu từ chính bạn.
Lê Việt Nhân
Xóa bỏ mỹ từ “Cách mạng” – Khai tử một ngôn ngữ đã nhuốm máu nhân loại
Từ khi loài người biết dùng ngôn ngữ để truyền cảm hứng, cũng có những kẻ dùng ngôn ngữ để che đậy tội ác. Trong số đó, không có từ nào bị lạm dụng tàn bạo hơn “Cách mạng”.
🩸 “Cách mạng” – Chiếc mặt nạ của tội ác
Từ Lenin đến Stalin, từ Mao Trạch Đông đến Pol Pot, từ Hồ Chí Minh đến Kim Nhật Thành – tất cả đều nhân danh “Cách mạng” để tiến hành những cuộc thanh trừng, đấu tố, cải tạo, cưỡng bức, và giết hại hàng triệu người vô tội. Họ gọi đó là “giải phóng nhân dân”, nhưng thực chất là cướp bóc, đàn áp và tiêu diệt chính nhân dân.
Stalin: Cuộc thanh trừng vĩ đại và nạn đói Holodomor đã giết hàng triệu người Ukraine.
Mao Trạch Đông: Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa khiến hơn 45 triệu người chết đói, bị tra tấn hoặc hành quyết.
Pol Pot: Diệt chủng Campuchia, giết 1/4 dân số trong 4 năm.
Hồ Chí Minh: Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, và các cuộc đấu tố đã khiến hàng chục ngàn người chết oan.
Tất cả đều được thực hiện dưới danh nghĩa “Cách mạng”.
📊 Những con số không thể chối bỏ
Theo các nghiên cứu học thuật:
Quốc gia
Số người chết ước tính
Trung Quốc
65 triệu người
Liên Xô
20 triệu người
Campuchia
2 triệu người
Triều Tiên
2 triệu người
Việt Nam
1 triệu người
Đông Âu
1 triệu người
Tổng cộng: Từ 94 triệu đến 148 triệu người đã chết dưới các chế độ cộng sản nhân danh “Cách mạng”.
🧠 Khi ngôn ngữ trở thành vũ khí
Thuật ngữ “Cách mạng” đã bị biến thành một công cụ tuyên truyền, một thứ mỹ từ để che đậy sự tàn bạo. Nó không còn là biểu tượng của tiến bộ, mà là biểu tượng của sự hủy diệt.
Các học giả đã phải sáng tạo ra những thuật ngữ mới để mô tả tội ác này:
Democide: Giết người có chủ đích bởi chính phủ.
Classicide: Diệt chủng theo tầng lớp xã hội.
Politicide: Diệt chủng theo quan điểm chính trị.
Red Holocaust: Cuộc tàn sát Đỏ – tương đương với Holocaust của Đức Quốc xã.
🚫 Đã đến lúc khai tử từ “Cách mạng” trong ngôn ngữ chính trị
Chúng ta không thể tiếp tục dùng một từ đã nhuốm máu hàng triệu người để ca tụng những cuộc đổi thay. Nếu một cuộc “cách mạng” dẫn đến cái chết của hàng triệu người vô tội, thì đó không phải là cách mạng – đó là tội ác chống lại loài người.
Hãy xóa bỏ mỹ từ “Cách mạng” khỏi ngôn ngữ chính trị. Hãy gọi đúng tên của nó: thanh trừng, đàn áp, diệt chủng, độc tài.
Xóa bỏ mỹ từ “Cách mạng” – Khai tử một ngôn ngữ đã nhuốm máu nhân loại
Từ khi loài người biết dùng ngôn ngữ để truyền cảm hứng, cũng có những kẻ dùng ngôn ngữ để che đậy tội ác. Trong số đó, không có từ nào bị lạm dụng tàn bạo hơn “Cách mạng”.
🩸 “Cách mạng” – Chiếc mặt nạ của tội ác
Từ Lenin đến Stalin, từ Mao Trạch Đông đến Pol Pot, từ Hồ Chí Minh đến Kim Nhật Thành – tất cả đều nhân danh “Cách mạng” để tiến hành những cuộc thanh trừng, đấu tố, cải tạo, cưỡng bức, và giết hại hàng triệu người vô tội. Họ gọi đó là “giải phóng nhân dân”, nhưng thực chất là cướp bóc, đàn áp và tiêu diệt chính nhân dân.
Stalin: Cuộc thanh trừng vĩ đại và nạn đói Holodomor đã giết hàng triệu người Ukraine.
Mao Trạch Đông: Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa khiến hơn 45 triệu người chết đói, bị tra tấn hoặc hành quyết.
Pol Pot: Diệt chủng Campuchia, giết 1/4 dân số trong 4 năm.
Hồ Chí Minh: Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, và các cuộc đấu tố đã khiến hàng chục ngàn người chết oan.
Tất cả đều được thực hiện dưới danh nghĩa “Cách mạng”.
📊 Những con số không thể chối bỏ
Theo các nghiên cứu học thuật:
Quốc gia
Số người chết ước tính
Trung Quốc
65 triệu người
Liên Xô
20 triệu người
Campuchia
2 triệu người
Triều Tiên
2 triệu người
Việt Nam
1 triệu người
Đông Âu
1 triệu người
Tổng cộng: Từ 94 triệu đến 148 triệu người đã chết dưới các chế độ cộng sản nhân danh “Cách mạng”.
🧠 Khi ngôn ngữ trở thành vũ khí
Thuật ngữ “Cách mạng” đã bị biến thành một công cụ tuyên truyền, một thứ mỹ từ để che đậy sự tàn bạo. Nó không còn là biểu tượng của tiến bộ, mà là biểu tượng của sự hủy diệt.
Các học giả đã phải sáng tạo ra những thuật ngữ mới để mô tả tội ác này:
Democide: Giết người có chủ đích bởi chính phủ.
Classicide: Diệt chủng theo tầng lớp xã hội.
Politicide: Diệt chủng theo quan điểm chính trị.
Red Holocaust: Cuộc tàn sát Đỏ – tương đương với Holocaust của Đức Quốc xã.
🚫 Đã đến lúc khai tử từ “Cách mạng” trong ngôn ngữ chính trị
Chúng ta không thể tiếp tục dùng một từ đã nhuốm máu hàng triệu người để ca tụng những cuộc đổi thay. Nếu một cuộc “cách mạng” dẫn đến cái chết của hàng triệu người vô tội, thì đó không phải là cách mạng – đó là tội ác chống lại loài người.
“Cách mạng” – Mỹ từ đã nhuốm máu hàng triệu người vô tội
Từ Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot đến Hồ Chí Minh – tất cả đều nhân danh “cách mạng” để tiến hành thanh trừng, đấu tố, cải tạo, cưỡng bức, và giết hại chính nhân dân mình.
📉 Theo Sách Đen của Chủ nghĩa Cộng sản, hơn 94 triệu người đã chết dưới các chế độ cộng sản. 📊 Nhà nghiên cứu Rudolph Rummel ước tính con số lên đến 148 triệu người – chết vì đói, vì trại cải tạo, vì bị xử tử, vì bị tước đoạt nhân phẩm.
“Cách mạng” không còn là biểu tượng của tiến bộ. Nó đã trở thành mặt nạ của tội ác, vũ khí của độc tài, và ngôn ngữ của sự hủy diệt.
✊ Hãy xóa bỏ mỹ từ “Cách mạng” khỏi ngôn ngữ chính trị. Hãy gọi đúng tên của nó: đàn áp, diệt chủng, độc tài.
Lịch sử không tha thứ cho sự thờ ơ. Tổ quốc không thuộc về những kẻ im lặng.
Hãy xóa bỏ mỹ từ “Cách mạng” khỏi ngôn ngữ chính trị. Hãy gọi đúng tên của nó: thanh trừng, đàn áp, diệt chủng, độc tài.
🔥 CÁCH MẠNG THÁNG TÁM – MỸ TỪ LỪA DỐI CỦA MỘT CUỘC CƯỚP CHÍNH QUYỀN
Mỗi năm, truyền thông nhà nước lại rập khuôn ca tụng “Cách mạng Tháng Tám” như một chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nhưng sự thật lịch sử thì sao?
📌 Không có cuộc cách mạng thực sự. Tháng 8/1945, Nhật đầu hàng, chính quyền tan rã. Đảng Cộng sản chỉ tranh thủ khoảng trống quyền lực, không hề “giải phóng” bằng chiến thắng quân sự.
📌 “Nhân dân làm chủ” chỉ là khẩu hiệu rỗng. Ngay sau đó, các lực lượng quốc gia, trí thức, tôn giáo bị thanh trừng, thủ tiêu, giam cầm. Đảng độc quyền cai trị, nhân dân chỉ là công cụ tuyên truyền.
📌 Độc lập bị đánh đổi bằng ý thức hệ ngoại lai. Thay vì xây dựng dân chủ, Việt Nam bị kéo vào vòng lệ thuộc Liên Xô – Trung Quốc, trở thành tiền đồn của cộng sản quốc tế.
📌 “Thắng lợi” dẫn đến 30 năm chiến tranh, hàng triệu người chết, đất nước kiệt quệ, xã hội chia rẽ. Đó là cái giá của một “cách mạng” không vì dân.
📌 “Ảnh hưởng quốc tế”? Nhiều nước giành độc lập bằng hòa bình (Ấn Độ, Malaysia…), không cần gieo rắc bạo lực cộng sản.
❗️Cách mạng Tháng Tám không phải là khởi đầu của tự do – mà là khởi đầu của độc tài, đàn áp và chiến tranh.
Đã đến lúc ngừng tôn vinh một huyền thoại chính trị, và bắt đầu đối diện với sự thật lịch sử.
🧨 Chủ nghĩa xã hội – lời thoại cũ kỹ cho một thế giới đã thay đổi
Trong bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm ngành ngoại giao, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tuyên bố rằng Việt Nam đang “nâng tầm đóng góp cho nền chính trị, kinh tế thế giới, nền văn minh nhân loại”. Nhưng câu hỏi đặt ra là: bằng cách nào? Và dựa trên nền tảng tư tưởng nào?
1. Chủ nghĩa xã hội kiểu cũ – một giáo điều đã lỗi thời
Chủ nghĩa xã hội mà ông Tô Lâm ca ngợi không phải là một mô hình khoa học hay nhân văn, mà là một hệ tư tưởng đã bị lịch sử bác bỏ bởi chính thực tiễn:
Liên Xô sụp đổ, Đông Âu tan rã, Trung Quốc chuyển sang kinh tế thị trường – đó là những minh chứng không thể chối cãi.
Chủ nghĩa xã hội kiểu Việt Nam vẫn duy trì độc quyền chính trị, kiểm soát tư tưởng, và đàn áp phản biện – đi ngược lại với các giá trị phổ quát của văn minh nhân loại: tự do, nhân quyền, pháp quyền.
2. Ngoại giao hay sân khấu tuyên truyền?
Việc trao huân chương, ca ngợi “thành tích đột xuất” của ngành ngoại giao không thể che giấu thực trạng:
Ngoại giao Việt Nam vẫn là công cụ phục vụ tuyên truyền chính trị, không phải là nền tảng xây dựng lòng tin quốc tế.
Những khẩu hiệu như “ngoại giao toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp” chỉ là lớp vỏ ngôn từ, thiếu nội dung thực chất nếu không có tự do học thuật, minh bạch thông tin và tôn trọng sự thật.
3. Khoa học và trí tuệ bị thao túng
Tuyên bố “ứng dụng trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn” nghe có vẻ hiện đại, nhưng trong một môi trường kiểm duyệt và định hướng tư tưởng, khoa học không thể phát triển:
Không có tự do nghiên cứu, không có phản biện độc lập, thì mọi “hệ sinh thái nghiên cứu” chỉ là hình thức.
Trí tuệ không thể nảy nở trong bóng tối của sợ hãi và kiểm soát.
4. Văn minh nhân loại không đến từ sự áp đặt
Việt Nam không thể “đóng góp cho văn minh nhân loại” nếu vẫn duy trì:
Một hệ thống chính trị độc đảng, không có cạnh tranh quyền lực.
Một nền giáo dục bị định hướng bởi lý luận Mác – Lênin thay vì tư duy khai phóng.
Một xã hội mà người dân không được quyền tự do biểu đạt, báo chí bị kiểm duyệt, và người phản biện bị coi là “thế lực thù địch”.
🔥 Kết luận: Đã đến lúc tỉnh thức
Thế giới đang chuyển mình theo hướng dân chủ, đa nguyên, tôn trọng nhân quyền và khoa học. Việc tiếp tục ca ngợi một mô hình đã lỗi thời không chỉ là sự ngụy biện, mà còn là sự xúc phạm đến trí tuệ và phẩm giá của người dân.
Nếu Việt Nam thực sự muốn “nâng tầm đóng góp cho nhân loại”, thì cần bắt đầu từ việc:
Thừa nhận sai lầm của mô hình cũ.
Mở rộng không gian tự do cho tư tưởng và phản biện.
Tôn trọng quyền con người và pháp quyền thực chất.
Chỉ khi đó, Việt Nam mới có thể bước ra khỏi cái bóng của tuyên truyền và thực sự trở thành một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
🇻🇳 Việt Nam Trong Thế Kỷ 21: Khi Lý Tưởng Lỗi Thời Trở Thành Gánh Nặng Dân Tộc
✒️ Xã Luận Báo Chí – Góc Nhìn Phản Biện
Trong khi thế giới đang tiến về phía trước với tốc độ chưa từng thấy – nơi mà dân chủ, nhân quyền, và công nghệ đang tái định hình mọi khía cạnh của đời sống – Việt Nam vẫn kiên định giữ mô hình chính trị độc đảng cộng sản, như một di tích sống của thế kỷ 20. Trong số gần 200 quốc gia, chỉ còn vỏn vẹn vài nước duy trì chế độ cộng sản, và Việt Nam là một trong số đó. Điều này đặt ra câu hỏi: phải chăng chúng ta đang đi ngược chiều lịch sử?
🧭 Lý tưởng hay xiềng xích?
Chủ nghĩa cộng sản từng được ca ngợi là con đường giải phóng dân tộc, nhưng ngày nay, nó đang trở thành xiềng xích tư tưởng. Khi Tổng Bí thư Tô Lâm tuyên bố rằng Việt Nam đang “nâng tầm đóng góp cho nền văn minh nhân loại”, người ta không khỏi tự hỏi: đóng góp ấy là gì? Là mô hình kiểm soát báo chí, bắt bớ người bất đồng chính kiến, hay là sự thờ phụng Đảng thay vì tổ tiên?
📉 Những nghịch lý không thể chối bỏ:
Tự do ngôn luận bị bóp nghẹt: Việt Nam liên tục nằm trong nhóm cuối bảng xếp hạng tự do báo chí toàn cầu. Những tiếng nói phản biện bị quy chụp là “phản động”, “thế lực thù địch”, và bị xử lý hình sự.
Độc đảng không đồng nghĩa với ổn định: Sự thiếu cạnh tranh chính trị dẫn đến trì trệ tư duy, tham nhũng hệ thống, và sự xa rời thực tế của tầng lớp lãnh đạo.
Thờ phụng Đảng thay vì tổ tiên: Trong khi các quốc gia Á Đông tôn vinh truyền thống và đạo hiếu, Việt Nam lại đặt biểu tượng Đảng lên trên cả giá trị văn hóa dân tộc – một sự đảo ngược đáng báo động.
Kinh tế phát triển nhưng quyền lực không chia sẻ: Dù GDP tăng trưởng, người dân vẫn không có quyền chọn lãnh đạo, không có quyền biểu đạt chính kiến, và không có quyền kiểm soát quyền lực.
🌐 Việt Nam trong mắt thế giới
Thế giới không chỉ đánh giá một quốc gia qua tăng trưởng kinh tế, mà còn qua cách quốc gia ấy đối xử với người dân của mình. Khi các nước dân chủ tôn vinh quyền con người, Việt Nam vẫn duy trì mô hình kiểm soát toàn diện, từ tư tưởng đến đời sống cá nhân. Điều này khiến Việt Nam trở nên lạc lõng trong cộng đồng quốc tế hiện đại.
🔥 Kết luận: Đã đến lúc nhìn lại
Không ai phủ nhận những thành tựu của Việt Nam trong công cuộc phát triển kinh tế. Nhưng nếu không đi kèm với cải cách chính trị, những thành tựu ấy sẽ chỉ là lớp vỏ hào nhoáng che đậy một hệ thống lỗi thời. Chủ nghĩa cộng sản không còn là lý tưởng – nó đang trở thành gánh nặng. Và nếu Việt Nam thực sự muốn “nâng tầm đóng góp cho nền văn minh nhân loại”, thì điều đầu tiên cần làm là giải phóng tư tưởng, trao quyền cho người dân, và bước ra khỏi cái bóng của quá khứ.
Bài Phát Biểu: Đánh Thức Lương Tri Người Việt Trong Thế Kỷ 21
Kính thưa đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước,
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà thế giới thay đổi từng ngày, từng giờ. Công nghệ bứt phá, tư tưởng khai phóng, nhân quyền được tôn vinh, và dân chủ trở thành nền tảng của tiến bộ. Nhưng giữa dòng chảy ấy, dân tộc Việt Nam – với hơn 4.000 năm văn hiến – lại đang đứng trước một nghịch lý đau lòng: chúng ta vẫn đang bị trói buộc bởi một mô hình chính trị lỗi thời, một hệ tư tưởng đã bị lịch sử lên án, và một bộ máy quyền lực không xuất phát từ lá phiếu của nhân dân.
🧠 Lương tri không thể ngủ yên
Lương tri là tiếng nói bên trong mỗi con người – tiếng nói của sự thật, của công lý, của khát vọng tự do. Nhưng lương tri ấy đã bị ru ngủ quá lâu bởi những khẩu hiệu sáo rỗng, những bài học lịch sử bị bóp méo, và một nền giáo dục không khuyến khích tư duy phản biện. Đã đến lúc chúng ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức để thấy rằng:
Tự do không phải là đặc ân, mà là quyền thiêng liêng.
Yêu nước không đồng nghĩa với phục tùng tuyệt đối.
Phản biện không phải là phản động, mà là biểu hiện của trí tuệ và trách nhiệm.
🔥 Dân tộc không thể tiến bộ nếu tư tưởng bị giam cầm
Chúng ta không thể xây dựng một xã hội văn minh nếu người dân không được quyền chọn lãnh đạo, không được quyền lên tiếng, và không được quyền mơ ước một tương lai khác. Một đất nước mà người viết bị bắt, người nói bị kiểm duyệt, và người suy nghĩ bị đe dọa – đó không phải là đất nước của Hồ Chí Minh, của Trần Hưng Đạo, hay của Nguyễn Trãi. Đó là một phiên bản méo mó của lý tưởng dân tộc.
🌏 Việt Nam phải là một phần của thế giới tiến bộ
Thế giới không chờ đợi chúng ta. Các quốc gia từng là đồng minh ý thức hệ của Việt Nam đã cải cách, đã dân chủ hóa, và đã vươn lên. Chúng ta không thể mãi là một trong số ít quốc gia còn giữ chế độ cộng sản – như một bảo tàng sống của sự bảo thủ. Nếu chúng ta thực sự yêu nước, thì phải dám nhìn thẳng vào sự thật, dám đặt câu hỏi, và dám đòi hỏi thay đổi.
✊ Hãy đứng dậy, hãy lên tiếng
Tôi kêu gọi mọi người Việt Nam – trí thức, nông dân, công nhân, doanh nhân, sinh viên – hãy đánh thức lương tri của mình. Hãy hỏi: đất nước này có thực sự thuộc về nhân dân không? Hãy đòi hỏi một xã hội nơi tiếng nói của bạn được lắng nghe, nơi con cháu bạn được sống trong tự do, và nơi tổ tiên bạn được tôn vinh đúng nghĩa – không phải bằng khẩu hiệu, mà bằng hành động.
Lịch sử không tha thứ cho sự thờ ơ. Tổ quốc không thuộc về những kẻ im lặng. Và tương lai không dành cho những ai chấp nhận sống trong bóng tối.
Việt Nam phải thay đổi. Và sự thay đổi ấy bắt đầu từ chính bạn.
Bình luận: Khi “không vụ lợi” trở thành lá chắn cho tham nhũng
Hiện tượng tham nhũng trong bộ máy công quyền Việt Nam không còn là điều xa lạ, nhưng cách xử lý trong vụ án Vạn Thịnh Phát và SCB khiến dư luận không khỏi sửng sốt. Việc một số cán bộ hầu hết gốc Bắc nhận tiền hối lộ hàng trăm triệu đồng, thậm chí hàng triệu đô la Mỹ, nhưng lại được miễn truy cứu hình sự vì lý do “không vụ lợi” là một cú tát vào niềm tin công lý của người dân. Chỉ có cán bộ gốc Bắc mới được nhân hối lộ bất ụ lợi!
⚖️ Pháp luật bị uốn cong theo quyền lực?
Điều 354 Bộ luật Hình sự quy định rõ: nhận hối lộ từ 2 triệu đồng trở lên có thể bị tù từ 2 năm đến chung thân hoặc tử hình.
Thế nhưng, 7 cán bộ thanh tra ngân hàng nhận tiền từ SCB lại được miễn tố vì “vai trò cấp dưới” và “không vụ lợi”.
Cách lý giải này khiến người dân đặt câu hỏi: phải chăng luật pháp chỉ dành cho dân thường, còn cán bộ thì có đặc quyền miễn trừ?
💸 Tham nhũng có hệ thống và được bảo kê?
Vụ án cho thấy sự cấu kết giữa giới lãnh đạo ngân hàng và cán bộ thanh tra trong việc thao túng thị trường tín dụng.
Bà Đỗ Thị Nhàn nhận $5.2 triệu, ông Võ Tấn Hoàng Văn là người chuyển tiền nhưng cũng không bị truy tố vì “thành khẩn khai báo”.
Đây không còn là hành vi cá nhân, mà là biểu hiện của một hệ thống tham nhũng được tổ chức bài bản và có sự bảo kê từ cấp cao.
🗣️ Dư luận phản ứng mạnh mẽ
Nhiều độc giả lên tiếng: “Ăn cắp điện thoại 2.5 triệu thì bị tù, nhận hàng trăm triệu lại vô tội” – một sự bất công trắng trợn.
Có người đề nghị truy tố các cán bộ này về tội “bao che không tố giác tội phạm” – một đề xuất hoàn toàn hợp lý trong bối cảnh hiện nay.
🔍 Kết luận
Vụ việc này không chỉ là một scandal tài chính, mà còn là phép thử cho hệ thống pháp lý và đạo đức công vụ tại Việt Nam. Nếu những người có chức quyền tiếp tục được miễn trách nhiệm vì lý do “không vụ lợi”, thì niềm tin vào công lý sẽ ngày càng bị xói mòn. Tham nhũng không thể được biện minh bằng cấp bậc hay động cơ – bởi hậu quả mà nó gây ra cho xã hội là như nhau: mất mát, bất công, và suy thoái niềm tin.
🧨 Xã luận: Tham nhũng – Vết thương chưa lành của đất nước
Trong suốt nhiều thập kỷ, người dân Việt Nam đã chứng kiến một thực trạng đau lòng: những người nắm quyền lực trong bộ máy nhà nước, thay vì phục vụ nhân dân, lại lợi dụng chức vụ để vơ vét tài sản quốc gia, làm giàu cho cá nhân và gia tộc. Vụ án Vạn Thịnh Phát và SCB chỉ là một phần nổi của tảng băng chìm, phơi bày sự cấu kết giữa giới lãnh đạo và hệ thống thanh tra, giám sát – những người lẽ ra phải bảo vệ sự minh bạch.
⚖️ Khi quyền lực không bị kiểm soát
Các cán bộ thanh tra nhận hàng trăm triệu đồng, thậm chí hàng triệu đô la Mỹ, nhưng lại được miễn truy cứu hình sự vì lý do “không vụ lợi”.
Đây là biểu hiện rõ ràng của sự tha hóa quyền lực, khi luật pháp bị uốn cong để bảo vệ những người có chức có quyền.
💸 Hậu quả xã hội: Một đất nước bị chia cắt bởi bất công
Trong khi một số gia đình cán bộ giàu lên nhanh chóng, sở hữu biệt thự, xe sang, thì nhiều người dân – đặc biệt ở các đô thị miền Nam – sống trong cảnh vô gia cư, nhà tranh vách đất, thiếu thốn đủ đường.
Sự tương phản giàu nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế, mà là hệ quả của một hệ thống phân phối quyền lực và tài sản thiếu công bằng.
🗣️ Dân tộc không thể bị chia rẽ bởi tham nhũng
Việc quy chụp tham nhũng cho một vùng miền là nguy hiểm và phản tác dụng. Tham nhũng không có “quê quán” – nó tồn tại ở nơi nào quyền lực không bị giám sát.
Điều cần lên án là hệ thống đã dung túng cho tham nhũng, bất kể người đó đến từ đâu, giữ chức vụ gì.
🔍 Kết luận: Đòi hỏi công lý, không phải chia rẽ
Tham nhũng là một tội ác chống lại nhân dân. Nó không chỉ làm thất thoát tài sản quốc gia, mà còn phá hoại niềm tin, chia rẽ cộng đồng, và làm suy yếu đạo đức xã hội. Để xây dựng một đất nước công bằng và thịnh vượng, chúng ta cần lên án mọi hành vi tham nhũng – không phân biệt vùng miền, chức vụ hay lý do. Chỉ khi công lý được thực thi một cách công bằng, không thiên vị, thì Việt Nam mới có thể chữa lành vết thương và tiến về phía trước.